Nội dung tham khảo môn Văn thi HKI

Tiêu chuẩn

Sau đây là toàn bộ nội dung tham thi HKI môn Văn từ cô Nga, các bạn chọn lọc từng bài rồi copy về mà học nhe:

HAI ĐỨA TRẺ

A. Vài nét về tác giả – tác phẩm.
1. Tác giả: Thạch Lam(1910-1942)
a. Cuộc đời:
– Ông là nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn.
– Đặc điểm con người: Sống trầm tĩnh và điềm đạm, rất tinh tế. Đặc điểm ấy để lại dấu ấn rõ nét trong sáng tác của ông.
b. Quan điểm sáng tác:
– “Văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát li, sự quên những thứ đen tối trước mặt mà trái lại văn chương là một thứ vũ khí thanh cao để vừa tố cáo vừa thay đổi thế giới giả dối và tàn ác và làm cho lòng người được trở nên trong sạch và phong phú hơn.” Vì thế tuy là một nhà văn lãng mạn nhưng sáng tác của ông có xu hướng nghiêng về hiện thực mà “Hai đứa trẻ” là một minh chứng cho điều đó.
c. Đặc điểm sáng tác.
– Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn với một lối viết riêng: truyện của ông thường không có cốt truyện, li kì, đặc biệt. Các tình huống truyện, sự kiện chủ yếu mang chức năng bộc lộ trạng thái tâm trạng. ( Các nhân vật thường ít nói năng, hành động. Vì thế truyện ngắn của ông được gọi là truyện ngắn tâm tình giàu sắc thái trữ tình và mang đậm chất thơ)
– Ông là nhà văn mở đường cho kiểu viết truyện ngắn không có cốt truyện li kì.
-Thế giới nhân vật trong truyện của ông thường là lớp trí thức nghèo khổ ở những làng quê nghèo, phố huyện nghèo khổ.
– Không khí chung trong nhiều truyện ngắn của ông thường có nét buồn, tiêu điều, xơ xác. Sự sống như tàn lụi, mòn mỏi.
* Các đặc điểm trên được thể hiện rõ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
2. Tác phẩm:
– Là truyện ngắn được in trong tập “Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938. Đây là tác phẩm được coi là tiêu biểu nhất trong phong cách viết truyện ngắn của Thạch Lam.

B. Đọc – hiểu tác phẩm
I. Bố cục: 3 phần khá rõ.
1. Phần 1: Từ đầu … tiếng cười khanh khách nhỏ dần về cuối làng: Cảnh phố huyện lúc chiều xuống. (Tác giả tập trung thể hiện tâm trạng buồn man mác, mơ hồ, khó hiểu của chị em Liên trước cảnh ngày tàn.)
2. Phần 2: “Trời đã bắt đầu đêm… tâm hồn Liên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu: Cảnh phố huyện trong đêm tối. ( Tác giả tập trung mô tả tâm trạng buồn khắc khoải trong cảnh đời chờ mong ước một cái gì tốt đẹp, tươi sáng hơn cho cuộc sống leo lét, tù đọng trong hiện tại.
3. Phần 3: Đoạn còn lại: Cảnh phố huyện nghèo lúc đoàn tàu từ Hà Nội về và tâm trạng buồn thấm thía về cuộc sống mỏi mòn không thể đổi thay còn những gì tốt đẹp, tươi sáng mà hai chị em Liên mong ước chỉ là kì vọng quá xa xôi giống như một đoàn tàu từ Hà Nội về vụt qua phố huyện.

–> Nhận xét chung: Bố cục 3 phần của câu truyện đều tập trung lí giải lí do thức đợi được nhìn chuyến tàu từ Hà Nội về.

II. Nội dung tác phẩm:

1. Tác phẩm tập trung thể hiện cuộc sống lụi tàn leo lét của những kiếp người sống nghèo đói không ánh sáng, không hạnh phúc, không tương lai.
*Mở đầu là cảnh ngày tàn:
– Ánh mặt trời trong buổi chiều ấy được tác giả ví như hòn than sắp tàn.
– Đồng điệu với ngày tàn là chợ tàn: mọi người về hết, tiếng ồn ào cũng mất, trên mặt đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía… Các sự vật cũng tàn tạ: cái chõng cũng sắp tàn.
-Cuối cùng hiện lên giữa cái không gian và thời gian tàn tạ ấy là những mảnh đời, những kiếp người cũng tàn tạ:
+ Những đứa trẻ đi nhặt rác, tiếp đó là hình ảnh bà cụ Thi điên xuất hiện – người điên thì cuộc đời cũng gần như tàn tạ, vô nghĩa.
+ Gánh hàng nước của hai mẹ con chị Tí với một gia tài còm cõi – tất cả chỉ trên vai người mẹ và bàn tay đứa trẻ. Hai mẹ con chị ngày thì đi bắt cua, bắt ốc, đêm đến dọn hàng nước nhưng cũng như mọi hôm, hai mẹ con chị cũng không hi vọng vì chi thốt lên: “Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì.”
+ Gánh phở của bác Siêu xuất hiện bằng hình ảnh có vẻ như tươi sáng, đáng giá nhất nhưng lại ế ẩm vì quá xa xỉ, nhiều tiền, không phải ai cũng mua được.
+ Gia đình bác xẩm với tiếng đàn ế ẩm không có người nghe.
+ Nổi bật lên giữa những mảnh đời ấy là hình ảnh hai chị em Liên. Mặc dù họ có một gian hàng để bán nhưng gia tài chẳng đáng bao nhiêu. Với gia tài như thế, họ cũng không hi vọng có một cuộc sống khá giả hơn.
–> NX chung: Có thể nói mỗi con người xuất hiện trong câu truyện đều có một cảnh ngộ riêng nhưng đều mang một đặc điểm chung là tất cả đều sống trong mòn mỏi, buồn chán, bế tắc, không một chút hi vọng gì về cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng hơn nhưng điều quan trọng nhất là tất cả những mảnh đời ấy, cảnh ngộ ấy đã hiện lên qua cái nhìn bùi ngùi, thương cảm của nhà văn. Tất cả được thể hiện rất rõ qua cách hành văn, qua những chi tiết tưởng như ngẫu nhiên: mùi vị của đất, cảnh chợ tàn, hai đứa trẻ nghĩ đến bát phở…đặc biệt là chi tiết ánh đèn leo lét nơi ngọn đèn hàng nước của chị Tí cứ láy đi láy lại(xuất hiện 7 lần trong tác phẩm) tạo ra ở người đọc nỗi thương cảm trong khi đó hiện tại là một màn đêm dày đặc đầy bóng tối. Kết thúc tác phẩm, hình ảnh ngọn đèn ấy gây một ấn tượng day dứt cuối cùng đi vào giấc ngủ của chị em Liên: “Liên thấy mình sống giữa bao sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.
2. Nhịp sống ở phố huyện nghèo trong câu truyện cứ lặp đi lặp lại một cách quẩn quanh đơn điệu, tẻ nhạt và tù túng:
– Chị em Liên chiều nào cũng ngồi đếm tiền dù họ chẳng bán được bao nhiêu, ngày nào cũng ngồi trên chiếc chõng sắp tàn và đêm nào cũng kiên nhẫn thức chờ đợi để được nhìn tàu từ Hà Nội về.
– Mẹ con chị Tí dù chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào cũng dọn hàng
– Gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe thì thỉnh thoảng góp chuyện bằng tiếng đàn bầu bật trong yên lặng.
+, Cảnh sống của họ thật bấp bênh, bế tắc. Chừng ấy người trong bóng tối ngày này qua ngày khác cứ sống trong sự quẩn quanh, tẻ nhạt ấy. Đó là lối sống mà Xuân Diệu từng viết: “Hết cơm mai rồi lại cơm chiều”.
+. Đó là cuộc sống của những con người trong ao đời bế tắc, tù túng nhưng cũng chính đó lại là lí do thức đợi tàu của bằng ấy mảnh đời nơi phố huyện nghèo bởi chuyến tàu đêm từ Hà Nội về như đem đến cho họ một thế giới khác hẳn. Đó là hình ảnh của một cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc hơn mà bằng ấy con người trong đêm tối mong ước, hi vọng và hướng tới. Qua đó ta thấy được cái nhìn đầy cảm thông, trân trọng với những khát vọng, ước mơ đổi đời của những mảnh đời nghèo khổ, lam lũ trong phố huyện nghèo mặc dù hi vọng đó chỉ mong manh mơ hồ như chuyến tàu vụt qua. Nó quá xa vời, vô vọng như ánh sao trên trời không thể vươn tới.
3. Tâm trạng nỗ lực, kiên trì thức đợi tàu của chị em Liên.
a. Lí do thức đợi tàu:
– Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vì đó là hình ảnh của tuổi thơ hạnh phúc trong quá khứ đã mất. Nay được nhìn đoàn tàu, hai chị em Liên tưởng như đang được sống lại trong giây lát tuổi thơ hạnh phúc đã mất.
– Vì đó là hình ảnh của một thế giới khác hẳn cuộc sống tăm tối nơi phố huyện. Đó là hình ảnh của tương lai cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc mà hai đứa trẻ hằng mong ước, chờ đợi. Bởi thế mà khi đoàn tàu đi rồi “Liên vẫn lặng theo mơ tưởng”.
– Được nhìn thấy chuyến tàu đêm vì đó là nhịp sống sôi động cuối cùng của một ngày.
– Không chỉ vậy, hai chị em còn thức đợi tàu để có thể bán thêm một ít hàng cho hành khách theo như lời của mẹ.
b. Ý nghĩa của tâm trạng thức đợi tàu:
– Chuyến tàu đêm là biểu tượng cho sự sống có ánh sáng, có hạnh phúc, nó hoàn toàn đối lập với cuộc sống mỏi mòn, quẩn quanh, bế tắc của người dân phố huyện.
–> Qua tâm trạng thức đợi tàu, Thạch Lam đã thể hiện thái độ trân trọng, thương cảm đối với những kiếp người nhỏ bé sống trong nghèo nàn, tăm tối. Qua tâm trạng đó, nhà văn như muốn lay tỉnh những con người đang sống trong buồn chán, quẩn quanh, bế tắc: “Hãy nỗ lực vươn lên một cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc”. Nhà văn hi vọng họ không chấp nhận, không cam chịu đựng sống trong ao đời tù túng, mòn mỏi nơi phố huyện mà hãy chờ đợi, hi vọng hướng tới một cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng hơn. Đó cũng là niềm tin của nhà văn: cho dù họ sống trong tù túng, mòn mỏi vẫn không mất đi khát vọng hướng tới cuộc sống hạnh phúc.Mặt khác qua tâm trạng đó, nhà văn Thạch Lam lên tiếng tố cáo, lên án xã hội đã vùi dập, đẩy con người vào cuộc sống tăm tối, nhất là trẻ thơ. Cuộc sống nơi phố huyện có khác nào mảnh đất cằn cỗi, bạc phếch mà hai chị em Liên như hai mầm non mọc trên đó sẽ ra sao? Nhà văn lên tiếng đòi thay đổi cuộc sống, đem lại choàNó sẽ tàn héo, lụi tàn.  những đứa trẻ cuộc sống xứng đáng hơn, có hạnh phúc, có tương lai.
4. Qua “Hai đứa trẻ” nhà văn còn thể hiện tấm lòng thiết tha gắn bó với quê hương, đất nước, thiên nhiên.
– Qua câu truyện, tác giả đã dựng lên cái gần gũi, thân thiết, rất gần gũi, thân thiết, gợi cảm.
– Các nhân vật trong câu truyện dù sống trong cuộc sống tù đọng, leo lét, mòn mỏi vẫn thiết tha với cuộc sống nơi phố huyện: “Một mùi ẩm thấp bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”.
– Dù sống trong nghèo khổ, lam lũ, hai đứa trẻ vẫn thiết tha ngắm sao và tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông thần Nông, ngắm những đợt hoa bàng khẽ rơi khe khẽ, vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây.

–>

Đó là những hình ảnh của quê hương, đất nước rất thân thuộc quanh ta nhưng qua cách hành văn nhẹ nhàng, dịu dàng đầy chất thơ đã trở nên gợi cảm biết bao. Từ đó nhà văn bồi đắp cho người đọc tình yêu quê hương đất nước.
********************************
ĐỀ VĂN ÔN TẬP
Đề 1: Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.


A. LẬP DÀN Ý:
1. Giới thiệu khái quát về Thạch Lam và tác phẩm “Hai đứa trẻ” cùng yêu cầu của đề. (Mở bài) (1.0 điểm)
2. Phân tích hình ảnh thiên nhiên.(3.0 điểm)
a. Những biểu hiện của cảnh vật thiên nhiên: (hình ảnh thiên nhiên)
+ Màu sắc.
+ Âm thanh.
+ Mùi vị.
–> Tất cả được thể hiện một cách tinh tế, chân thật –> Gợi hồn quê.
b. Nghệ thuật mô tả của tác giả:
– Tác giả không trực tiếp mô tả qua cảm nhận của mình mà qua cảm nhận và quan sát của Liên.
– Được thể hiện bằng những motip của ánh sáng, bóng tối.
– Cảnh vật có một sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc, âm thanh và mùi vị.
– Lối hành văn giàu chất nhạc, gần với thơ ca.
c. Vai trò của bức tranh thiên nhiên:
– Làm nền để trên đó khắc hoạ những mảnh đời nghèo khổ, lam lũ, bế tắc, quẩn quanh và không ánh sáng.
– Tạo ra cho tác phẩm nét trữ tình riêng biệt trong lối hành văn của nhà văn Thạch Lam và cũng tạo ra cho câu truyện một bối cảnh không gian mang đặc trưng của phố huyện nghèo rất chân thật.
– Gián tiếp thể hiện tâm trạng nhân vật.
3. Hình ảnh con người.(3.0 điểm)
a. Những biểu hiện của con người trong tác phẩm:
-Trong cảnh chiều tàn: những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí, bác Siêu, gia đình bác xẩm, bà cụ Thi điên, chị em Liên.
b. Đặc điểm chung của các mảnh đời:
– Nhếc nhác, lam lũ, mỏi mòn, héo hắt.
–> Tất cả đều buồn bã, ít hi vọng vào lối sống có tính cầu may nhưng họ đều mong đời có một cái gì tươi sáng hơn cho cuộc sống hiện tại nhưng thật mỏng manh, mơ hồ vì đó chỉ là một chuyến tàu.
c. Nghệ thuật:
– Tạo ra được sự tương đồng giữa cảnh vật và con người.
– Dựng lên những mẩu đối thoại vẩn vơ có vẻ ngẫu nhiên nhưng đều gợi tâm trạng buồn chán, thất vọng.
– Các nhân vật được xây dựng trong sự đối lập: giữa cái dày đặc mênh mông của bóng tối với những luồng sáng, giữa quá khứ hạnh phúc và thực tại phũ phàng,… rất gợi trạng thái tâm trạng của con người.
4. Ý nghĩa tư tưởng toát lên từ cảnh vật và con người. (2 điểm)
– Sự đồng cảm, thái độ trân trọng, nâng niu trước niềm tin và hi vọng dù có mơ hồ về tương lai tươi sáng hơn.
– Qua cảnh vật, thiên nhiên và con người, nhà văn gửi vào đó niềm ước mong một sự đổi thay sẽ đến với những mảnh đời tội nghiệp nơi phố huyện

–> Đây cũng là chiều sâu nhân đạo của tác phẩm “Hai đứa trẻ”.

5. Kết luận: Đánh giá và cảm nghĩ.(1.0 điểm)
( 1.0 điểm cho bài viết trình bày khoa học, sáng tạo và ấn tượng)

B. BÀI LÀM THAM KHẢO.
Thạch Lam là nhà văn lãng mạn tiêu biểu của Tự Lực Văn Đoàn với lối viết mang phong cách riêng độc đáo. Ông rất nổi tiếng với những truyện ngắn vừa mang đậm chất trữ tình vừa thể hiện một cảm quan hiện thực sâu sắc. Mỗi truyện ngắn của ông là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Tuy thời gian cầm bút chỉ 6 năm ngắn ngủi với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng cho đến nay có lẽ ông là nhà văn duy nhất của Tự Lực Văn Đoàn vượt qua được thử thách của thời gian bởi những truyện ngắn xuất sắc mà “Hai đứa trẻ” là một trong số đó.Ở đó, nhà văn không tạo ra một cốt truyện đặc biệt đầy những tình huống éo le mà chỉ dựng lên một bức tranh đời sống đầy ấn tượng qua hình ảnh thiên nhiên và con người nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối.
Bức tranh đời sống ở phố huyện nghèo lúc chiều tối được bắt đầu bằng âm thanh của một “tiếng trống thu không” vang vọng như đang gọi “Chiều, chiều rồi”. Đó không phải là giọng của Thạch Lam mà là giọng của Liên, một tiếng kêu ngậm ngùi trước cảnh ngày tàn. Lại một buổi chiều nữa Liên phải chứng kiến cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời đang lụi tàn “đỏ rực” như lửa đang cháy khiến cho những đám mây ánh hồng lên như “hòn than sắp tàn”. Tiếp đến là những luỹ tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Đó là một buổi chiều “êm ả như ru” trong những âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng” được “ngọn gió nhẹ hoang vu” mang theo vào phố huyện. Hoà vào đó là tiếng muỗi kêu vo ve thật gợi buồn. Cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi “mùi âm ẩm bốc lên hoà vào hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi”. Với hai chị em Liên, đó là “mùi riêng của đất”, của quê hương bình dị, quen thuộc. Đêm xuống, âm thanh như thưa thớt và mờ nhạt hơn đến mức Liên chỉ còn nghe hoa bàng rụng xuống trên vai mình khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Phố huyện nghèo giờ đây chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng xẫm đen hơn nữa”. Bóng tối càng mênh mông dày đặc hơn khi tác giả điểm vào đó nhứng điểm sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị Tí, những “hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên.
Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật gợi buồn vì được cảm nhận và mô tả qua ánh mắt của nhân vật Liên, một cô bé mới lớn lên đã có những ngày tháng sống ở Hà Nội đầy ánh sáng và hạnh phúc. Tất cả như được bắt đầu từ tiếng kêu ngậm ngùi, thoảng thốt của cô bé Liên: “Chiều, chiều rồi”. Dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn, cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện hiện ra trong sự hoà hợp thật khéo léo của hình ảnh, màu sắc, âm thanh và mùi vị. Đặc biệt là hình ảnh bóng tối và ánh sáng cứ trở đi trở lại như một motip nghệ thuật rất giàu sức gợi cảm. Góp phần làm nên nét riêng cho đặc sắc nghệ thuật mô tả thiên nhiên của Thạch Lam còn là lối hành văn giàu nhạc điệu, rất uyển chuyển, tinh tế cứ nhẹ nhàng cuốn hút người đọc vào thế giới thiên nhiên của phố huyện nghèo lúc chiều tối. Nó không những cho người đọc nhìn thấy mà quan trọng hơn là còn khơi gợi ở họ những tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật bởi dưới ngòi bút của Thạch Lam mọi cảnh vật đều trở nên thật gợi cảm biết bao.
Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật nhẹ nhàng, êm ả nhưng đượm buồn đã gợi rất chân thực không gian nơi đây. Sâu xa hơn, nó còn gián tiếp giúp người đọc cảm nhận thật thấm thía những diễn biến, trạng thái tâm trạng của các nhân vật. Đọc “Hai đứa trẻ”, ta thấy thật khó nói cho rạch ròi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người hay nỗi buồn trong tâm hồn ngây thơ của chị em Liên như nhuốm vào cảnh vật. Ở đó có một cái gì đó thật nhẹ nhàng, hoà hợp nhịp nhàng giữa nỗi buồn của cảnh vật và nỗi buồn trong tâm hồn con người, nhờ vậy mà nhà văn đã tạo ra cho tác phẩm một chất thơ, chất trữ tình riêng cho truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy lần lượt hiện ra những mảnh đời thật tội nghiệp. Đó là hình ảnh của những kiếp người lam lũ, tàn tạ, sống mòn mỏi, héo hắt trong mong đợi mơ hồ, xa xôi. Tất cả như đồng điệu với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối. Giữa cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện ra mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre giữa những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Nhìn cảnh ấy, Liên “động lòng thương” nhưng không có tiền để cho chúng nó. Khi trời nhá nhem tối, khung cảnh phố huyện xuất hiên thêm mẹ con chị Tí với gánh hàng nước thật nghèo nàn mà “tuy chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chiều đến đêm”. Tiếp đến là hình ảnh bà cụ Thi điên “lảo đảo đi lẫn vào bóng tối” với “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía cuối làng”. Đêm xuống, phố huyện có thêm gánh phở của bác Siêu với chấm lửa nhỏ lơ lửng đi trong đêm mất đi rồi lại hiện ra trong những chập chờn, có lẽ đây là hình ảnh có phần sáng sủa nhất của những kiếp người nơi đây nhưng cũng rất ế ẩm. Khép lại những mảnh đời bé mọn, tội nghiệp là gia đình bác xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, bác chưa hát vì không có người nghe”. Nổi bật lên thật ấn tượng và ám ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy là chị em Liên. Cha của hai em mất việc phải rời Hà Nội về quê kiếm sống nên hai em phải giúp mẹ bán hàng và trông coi gian hàng tạp hoá nhỏ xíu nghèo nàn. Nhớ lại cuộc sống phong lưu giữa “một vùng sáng rực” của Hà Nội khiến hai em càng buồn hơn cho hiện tại. Giờ đây mùi phở bác Siêu trong đêm thật hấp dẫn nhưng quá xa xỉ, nhiều tiền mà hai em không thể nào mơ tưởng.
Để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên là tâm hồn rất nhạy cảm, giàu yêu thương, dễ chạnh buồn của cô bé Liên và cảnh ngộ những người nghèo khổ nơi phố huyện. Có thể nói bằng ấy những mảnh đời nơi phố huyện đều sống trong cảnh nhếc nhác, quẩn quanh cùng một tâm trạng buồn bã ít hi vọng vào lối sống bấp bênh có tính cầu may của mình. Đó là một cuộc sống mòn mỏi lay lắt rất tương đồng với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối của phố huyện. Tất cả những mảnh đời ấy đều được nhà văn mô tả bằng nét bút chân thực nhưng khác với các nhà văn hiện thực Thạch Lam không đi vào mô tả cụ thể chi tiết mà chỉ được vẽ bằng nét chấm phá thoáng nhẹ nhưng rất tinh tế, giàu sức gợi tả và gợi cảm. Tất cả các nhân vật cứ hiện ra từ từ trong lặng lẽ, âm thầm như những cái bóng, ít nói năng, ít hành động nhưng nhờ đó mà nhà văn đã tô đậm, khắc sâu hơn ở người đọc ấn tượng về kiếp sống héo hắt, leo lét, tội nghiệp của cư dân phố huyện. Bên cạnh đó, nhà văn cũng rất thành công trong việc diễn đạt các trạng thái tâm trạng vừa mong manh, mơ hồ buồn vừa khắc khoải da diết của cô bé Liên lúc chiều tối.
Từ bức tranh thiên nhiên và những mảnh đời tội nghiệp của phố huyện lúc chiều tối ta bỗng nhận ra có một nhà văn đang lặng lẽ, âm thầm rảo bước giữa chiều hôm mà tâm hồn nặng tình gắn bó với mọi cảnh vật và con người bình dị, lam lũ nơi đây. Ở đó, người đọc không ai không xúc động khi tấm lòng bùi ngùi thương cảm kín đào, nhẹ nhàng mà chân thành, thấm thía của nhà văn đối với những kiếp người sống quẩn quanh,leo lét trong xã hội cũ trước cách mạng. Ở đó, ta còn thấy thái độ rất mực trân trọng và sự đồng cảm sâu xa của nhà văn đối với những mong ước tuy mơ hồ, mong manh và xa vời trong tâm hồn họ vì đó chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt đi qua phố huyện. Quả thật, tâm hồn nhà văn đã được thể hiện qua những lời văn nhiều hình nhiều vẻ nhưng bao giờ cũng đằm thắm và nhân hậu, cũng ngẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương. Bên cạnh đó, nhà văn còn đưa đến cho người đọc những cảnh quê hương thật quen thuộc mà không kém phần thơ mộng, gợi cảm. Từ đó cứ gợi nhắc mọi người về tình cảm đối với nguồn cội quê hương, với những mẩu kí ức đẹp mà buồn. Có lẽ tình yêu quê hương đất nước của mỗi con người Việt Nam có phần được bồi đắp bởi những kí ức hết sức bình dị như vậy đó.
Bức tranh thiên nhiên và đời sống con người ở phố huyện lúc chiều tối không có nhiều sự kiện, nhân vật, ít hành động, ít nói năng. Nhưng với lối viết giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ trong sáng Thạch Lam đã gợi được tinh tế những không khí của câu truyện, những cảnh sinh hoạt, những xúc cảm trong tâm hồn con người khiến cho bức tranh đời sống của phố huyện đầy ắp suy tư rung cảm. Từ bức tranh ấy cũng tủa ra một mảng sáng lung linh ấm áp trong tâm hồn người lao động nghèo và tấm lòng đầy nhân ái của Thạch Lam.
***************************

Đề 2: Phân tích tâm trạng đợi tàu của chị em Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của  Thạch Lam.

A. LẬP DÀN Ý:
1. Giới thiệu khái quát về Thạch Lam, tác phẩm “Hai đứa trẻ” dẫn dắt vào yêu cầu của đề. (Mở bài + Ý 1 thân bài) (1.5 điểm)
2. Nêu hoàn cảnh và lí do thức đợi tàu của hai chị em Liên. (2.0 điểm)
3. Diễn biến tâm trạng của chị em Liên. (cần pt tỉ mỉ từng câu văn diễn ta tâm trang tứ buồn khắc khoải -> vui -> buồn man mác khó hiểu- 2.5 điểm).
4. Ý nghĩa tư tưởng toát lên từ đó nói về nghệ thuật biểu hiện tâm trạng. (2.0 điểm)
+ Ý nghĩa.
+ Nghệ thuật.
5. Kết luận: đánh giá và cảm nghĩ. (1.0 điểm)
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Một truyện ngắn hay theo quan niệm truyền thống phải có cốt truyện đặc biệt được tạo ra bởi những tình huống éo le đầy kịch tính. Không đi theo lối mòn đó, truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” của Thạch Lam chỉ là một chuyện tâm tình nhỏ nhẹ nhưng không vì thế mà ta có thể dễ dàng quên được tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên. Ngày lại ngày khi đêm về khuya, chuyến tàu từ Hà Nội về đi qua phố huyện vậy mà hai chị em Liên vẫn khắc khoải thao thức và nhẫn lại, hồi hộp chờ đợi được nhìn nó với bao vui buồn và hi vọng.
Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Sáng tác của ông thiên về phản ánh hiện thực đời sống của tầng lớp người nghèo ở các phố huyện nhỏ và làng quê nghèo. Đọc những truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa”, “Dưới bóng hoàng lan”… nhất là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta dễ dàng nhận ra một lối viết thật tinh tế cùng tấm lòng rất mực nhạy cảm và nhân hậu. Ở đó, ông chủ yếu đi sâu thể hiện những xúc cảm mong manh mơ hồ trong thế giới nội tâm nhân vật vì thế truyện ngắn của ông còn được ví như “một bài thơ trữ tình đượm buồn”.
Câu truyện được bắt đầu với những xao động trong tâm hồn hai đứa trẻ khi nghe tiếng trống thu không gọi chiều về trên phố huyện. Tiếp đó, màn đêm buông xuống, bóng tối “ngập đầy dần đôi mắt Liên”. Đêm tối như ôm trùm lên tất cả phố huyện và càng dày đặc mênh mông hơn khi nhà văn điểm vào đó những “hột sáng”, “quầng sáng” leo lét, lờ mờ và một chấm lửa nhỏ lơ lửng trôi đi trong đêm… Nổi bật lên giữa thế giới đầy bóng tối và sự tàn tạ của cảnh vật: chiều tàn, chợ tàn, chõng tàn… là cảnh sống lam lũ quẩn quanh của những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí với gánh hàng nước ế ẩm, gia đình bác xẩm, bà cụ Thi điên và hai chị em Liên và An với gian hàng tạp hoá còm cõi, lèo tèo, xơ xác. Cuộc sống của hai chị em thật lay lắt, tẻ nhạt, ngày cũng như đêm cứ lặp đi lặp lại thật đơn điệu và buồn chán. Hai em như hai cái mầm non mọc trên mảnh đất cằn cỗi, bạc phếch.
Nhưng con người tự muôn đời nay luôn luôn sống trong khao khát và hi vọng những gì tươi sáng hơn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Sống giữa phố huyện nghèo đầy bóng tối nhưng chị em Liên cũng như chừng ấy người nơi phố huyện vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm đêm vẫn cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua bởi chuyến tàu chỉ vụt qua nhưng đã mang đến cho họ một thế giới khác hẳn vừng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa trong gian hàng bác Siêu chứ không đơn thuần là vâng lời mẹ dặn để có thể bán thêm một ít hàng bởi “họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”. Bởi lẽ đó mà Liên “dù buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố thức, còn An “đã nằm xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống vẫn không quên dặn chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”.
Có lẽ bởi vậy mà chuyến tàu được nhà văn tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ theo trình tự thời gian, qua tâm trạng của hai chị em Liên và An. Khi đêm đã về khuya, Liên vẫn thao thức không ngủ cho tới lúc “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Liên đã reo lên “Dậy đi, An. Tàu đến rồi”. Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh mông giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt, mang theo bao ước mơ và hoài bão đi tới nơi nào chẳng rõ vậy nên hai chị em Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”. Chuyến tàu đêm nay không đông và kém sáng hơn mọi ngày nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Đó là hình ảnh của Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, Hà Nội của những kỉ niệm đẹp mà bấy lâu nay chị em Liên vẫn tha thiết hướng về dù chỉ trong giây lát “theo dòng mơ tưởng”. Phải chăng những kỉ niệm tươi sáng thường in đậm và khắc sâu trong tâm hồn tuổi thơ giống như một chiếc gối êm đềm ru ta vào giấc ngủ dịu êm dù thực tại có phũ phàng hay ảm đạm. Xa Hà Nội đã lâu rồi nhưng chị em Liên vẫn “nhớ như in” những lần “đi chơi bờ hồ được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ, ăn những thức ăn ngon lạ”. Họ nhớ như in “một vùng sáng rực và lấp lánh” dù hiện tại với hai em mùi phở của bác Siêu thật hấp dẫn nhưng “quá xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được”. Tuy vậy, nó cứ gợi nhớ mùi thơm của hồi nào… Hình ảnh chuyến tàu đêm là kí ức đẹp của tuổi thơ một thời nhớ lại trong tiếc nuối. Chuyến tàu càng sáng rực, vui vẻ thì Liên càng ý thức rõ hơn cảnh sống tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng của phố huyện nghèo. Đoàn tàu đi rồi, đêm tối vẫn “bao bọc chung quanh”. Liên gối đầu lên tay và nhắm mắt lại để “hình ảnh thế giới xung quanh mình mờ mờ đi trong mắt chị”. Đó là lúc thấm thía sâu sắc nỗi buồn về một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh không thể đổi thay, Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Đó là hình ảnh gây ấn tượng day dứt buồn cuối cùng đi vào giấc ngủ của cô bé Liên. Nhưng đâu chỉ buồn và tiếc nuối, hai chị em Liên còn hồi hộp vui sướng khi tàu về như “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn đến với cuộc sống nghèo khổ thường ngày của họ”. Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn tẻ, chuyến tàu từ Hà Nội về như đã đem lại một chút thế giới khác đi qua phố huyện nghèo. Bởi vậy, khi tàu về rồi “khuất dần sau rặng tre” mà Liên vẫn cứ “lặng theo mơ tưởng”. Dường như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao thay đổi cuộc sống của hiện tại vẫn le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi sáng của ngày xưa như khi còn ở Hà Nội. Trong ý nghĩ hồn nhiên, non nớt và tội nghiệp của Liên, Hà Nội là một thiên đường ở trong mơ. Nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong lòng Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến, ánh mắt của Liên cứ đắm chìm vào cõi mơ tưởng. Liên nghĩ về quá khứ, nghĩ về tương lai và hiện tại. Quá khứ tuổi thơ tươi sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ mịt mong manh còn hiện tại thì đầy bóng tối. Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một tâm hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân hậu của Thạch Lam mới có thể phát hiện và thể hiện được. Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tuy mơ hồ nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt sáng lên rồi tắt dần, xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao nó vẫn là niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của hiện tại để hai chị em Liên đi vào giấc ngủ sau một ngày dài đầy buồn tẻ.
Không một chi tiết éo le, truyện hai đứa trẻ chỉ xoay quanh tâm trạng hồi hộp, khắc khoải đợi tàu trong đêm của chị em Liên. Bắt đầu từ tiếng trống thu không, thời gian cứ trôi qua theo sự xuất hiện từng mảnh đời tàn tạ của phố huyện nghèo, người đọc bỗng nhận ra trong tiếng reo “Dậy đi, An. Tàu đến rồi”là tình cảm bùi ngùi thương cảm của nhà văn dành cho những con người nhỏ bé, tội nghiệp như bị chôn vùi trong cuộc sống leo lét vô nghĩa trong xã hội cũ trước cách mạng. Còn gì thương cảm hơn khi niềm vui, niềm an ủi và ước mơ, hi vọng của họ chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt qua trong giây lát. Trang sách cuối cùng khép lại mà tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên cứ ám ảnh, cứ vấn vương ta hoài cứ như thầm thì nói hộ Thạch Lam: có những cuộc đời mới đáng thương và tội nghiệp làm sao nhưng cũng thật cảm động và đáng trân trọng biết bao khi họ vẫn vượt lên mọi tối tăm, lầm than trong hiện thực để ước mơ và hi vọng, để không mất đi niềm tin vào cuộc sống có chút ánh sáng trong tương lai. Ngày lại ngày, đêm lại đêm, Liên vẫn cố thức đợi tàu là những nỗ lực vừa cụ thể vừa mơ hồ muốn thoát ra khỏi hiện tại. Niềm tin và ước vọng ấy tuy mong manh nhưng tha thiết vô cùng trong tâm hồn hai đứa trẻ. Qua đó, ta nhận ra một tiếng kêu thổn thức trong trái tim của Thạch Lam. Cần phải thay đổi thế giới tăm tối này, cần phải đem đến cho con người nhất là trẻ thơ một cuộc sống hạnh phúc. Phải chăng hình ảnh hai chị em Liên cũng là hình ảnh của hai chị em cậu bé Vinh (tên hồi nhỏ của nhà văn Thạch Lam) ngày nào trên một phố huyện nghèo nay đã lùi sâu vào dĩ vãng của ông.
Là một truyện ngắn không có cốt truyện, đặc biệt nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới nội tâm của hai đứa trẻ, đó là những biến thái mơ hồ, mong manh trong tâm trạng hai đứa trẻ nhưng đã được cảm nhận và thể hiện thật tinh tế trong lối viết văn mềm mại, trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Chỉ một âm thanh “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi” cũng đủ để ta hình dung ra cô bé Liên đang sống trong mơ tưởng. Đó là âm thanh của chờ đợi và hi vọng nhưng cũng là dư âm của tiếc nuối. Đặc biệt là hình ảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá khứ tươi sáng đã mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên một cái gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn tự” của bài thơ trữ tình đượm buồn này.
Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta có cảm giác như được đọc một “bài thơ trữ tình đượm buồn” bởi qua tâm trạng đợi tàu của hai chị em Liên ta rất dễ nhận ra một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng thấm thía vô cùng trong lòng người đọc.

Đề 3. Cảm nhận về nhân vật Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
Nhân vật Liên được tác gả đặt ở vị trí trung tâm của truyện. Tính cách tâm hồn cô bé được tái hiện qua ánh mắt quan sát và những suy nghĩ cảm xúc khi đối diện với cuộc sống nơi phố huyện nghèo. Bằng tài nghệ khám phá thế giới nội tâm phong phú tinh tế, Thạch Lam đã tái hiện một cách chân thực sống động những vẻ đẹp tiềm ẩn trong nhân vật Liên…

1,Liên có tâm hồn nhạy cảm tinh tế nhân hậu của một đứa trẻ biết yêu thương.

a,Yêu thiên nhiên: Trái tim cô bé nhạy cảm tinh tế trước cái đẹp của thiên nhiên

– Tâm hồn trẻ thơ trong sáng ấy đã rộng mở để đón nhận những biến động tinh tế mơ hồ của cảnh vật. Liên càng biết được sự đổi thay của đất trời lúc ngày tàn:

+ Em lắng nghe từng tiếng động, báo hiệu một ngày sắp hết: từ tiếng trống thu không; tiếng ếch nhái kên ran ngoài đồng ruộng; đến cả tiếng muỗi vo ve. Như thể em đang đón nhận cả cái không khí im vắng tĩnh lặng của buổi chiều quê.

+ Cái nhìn của Liên bao quát cả khung trời phía tây đang rực rỡ trong ánh hoàng hôn. Bầu trời hồng rự rỡ như lửa cháy với những đám mây “ánh lên như hòn than sắp tàn”. Trên nền trời nổi bật đường viền sẫm màu của những rặng tre…Khoảnh khắc ngày tàn khơi lên trong cô bé một nỗi buồn man mác mơ hồ.

– Không chỉ yêu cảnh vật, Liên còn rất gắn bó với miền đất này. Khi quan sát cảnh phiên chợ đã tàn em cảm nhận được cái tiêu điều của vùng đất nghèo khó qua những thứ rác rưởi bot lại trên nền chợ ” vỏ bưởi vỏ thị, lá nhãn, lá mía”. Liên yêu mảnh đất này đến mức thuộc lấy cả mùi cát bụi ” một mùi âm ẩm của cát bụi bốc lên khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của vùng đất này”.

– Đặc biệt Liên tìm thấy ở đây những vẻ đẹp bình dị mà giàu chất thơ. Qua cách cảm nhận của em một đêm mùa hạ bỗng trở nên trong trẻo êm ả lạ thường ” trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Có cả vẻ đẹp của bầu trời đêm thăm thẳm với hàng ngàn ngôi sao đang ganh nhau lóe sáng….

==> Cách cảm nhận về thiên nhiên chứng tỏ tâm hồn cô bé Liên luôn rộng mở gắn bó và yêu thương với thế giới xung quanh.

b, Không chỉ yêu thiên nhiên trái tim cô bé còn biết yêu thương, cảm thông xót xa cho những nỗi khổ của con người.

– Liên thương trong cuôc sông nghèo khổ cơ cực của những người dân nghèo.

+ Em xót xa khi thấy những đứa trẻ nhà nghèo phải tìm bới nhặt nhạnh trong đống rác mặc dù biết mình không có tiền cho chúng.
+ Liên dành cho cụ Thi điên chút lòng qua cút rượu rót đầy.
+ Cô bé thương mẹ con chị Tí ” ngày mò cua bắt tép tối lại dọn hàng tới tận khuya mà cũng chẳng ăn thua”
+ Ánh mắt cô bế siết bao ái ngại khi quan sát cảng khốn cùng của gia đình bác sẩm ” cả nhà ngủ gục trên manh chiếu rách; chiếc thau sắt trống không …” Dường như em mường tượng được nỗi đói rét cùng cực đang chờ đợi họ.

– Cùng với nỗi xót xa trong cuộc sống vất vả nghèo khó cơ cực của những người dân phố huyện, cô bé Liên còn cảm nhận cả sự bế tắc tù đọng trong kiếp sống của họ. Họ bị giam cầm trong giữa cái ao đời quẩn quanh tăm tối không ánh sáng không tương lai. Cái nhìn của en thấm đượm niềm thương cảm sâu xa. ” Chừng ấy người ngồi lặng trong bóng tối như đang mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho..” ( sr mình quên mất đoạn dc này)

==> Miêu tả những cảm xúc tinh tế sâu sắc khi đối diên với thiên nhiên con người cuộc sống. Thạch Lam đã làm hiện lên một thế giới tâm hồn trẻ thơ trong sáng giàu tinh yêu thương.

2, Không chỉ biết yêu thương cô bé Liên còn biết ước mơ, biết hướng tới tương lai.

a, Tâm hồn ấy luôn thiết tha hướng về ánh sáng

– Bản thân cô bé phải sống trong không gian tiêu điều tăm tối của phố huyên nghèo, đặc biệt bóng tối như trùm lấp cả đất trời chiếm lĩnh mọi khoảng thời gian không gian. Không phải ngẫu nhiên Thạch Lam tô đậm đêm tối ” đường phố và các ngõ con dần chứa đầy bóng tối…tối hết cả con đường thăm thẳm qua sông, con đường qua chợ, những ngõ con vào làng càng…”. Trên nền trời cuộc sống tăm tối ấy nổi bật hình ảnh hai đứa trẻ nhỏ nhoi đáng thương như bị qiam cầm trong bóng tối ” Từ khi nhà Liên dọn ở Hà Nội về đây, từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và An cũng phải ngồi với cái tối của quang cảnh phố chung quanh”.

– Nhưng bằng tất cả sức sống của một tâm hồn trẻ thơ tươi sáng, Liên đã không chịu ” khuất phục” cái bóng tôi dày đặc kia. Ánh mắt em luôn thiết tha kiếm tìm những nguồn sáng. Có lúc cô bé ngước lên bầu trời đêm thăm thẳm đển chiêm ngưỡng ” hàng ngàn ngôi sao đang ganh nhau lấp lánh”, có lúc Liên tìm về những với những ngọn đèn gần gũi ấm áp xung quanh: đèn dây sáng trong hiệu khách; vầng sáng nhỏ tên chõng hành chị Tí;…thậm chí Liên nâng niu đến cả từng hột sáng lọt qua khe liếc. Tâm hồn em như một mầm cây khỏe khoắn luôn hướng về nơi có ánh sáng.

b, Cô bé còn biết kiếm tìm những niềm vui, biết hướng tới tương lai. Vẻ đẹp này được thể hiện qua niềm mong đợi chuyến tàu đêm qua phố huyện.

– Liên cố thức đợi chuyến tàu không phải để bán thêm vài món hàng mà em đợi tàu để được nhìn thấy một cộc sông náo động, một nguôn sáng rực rỡ. Bởi vì con tàu ấy là niềm vui duy nhất sau mỗi ngày dài đằng đẵng buồn tẻ và tăm tối của cuộc sống nơi đây…Cho nên Liên đợi nó như người ta mong một điều gì đó lớn lao kì diệu.

– Liên đánh thức em dậy từ lúc tàu chưa đến..cô bé đón với tất cả niềm hân hoan vui sướng

+ Qua cái nhìn của e con tàu bỗng trở nên lỗng lẫy lạ thường “đoàn tàu rầm rộ đi tới….” Con tàu như đến môth thế giới của thần thoại. Nó khơi lên trong Liên biết bao nhiêu cảm xúc hồi tưởng về một quá khứ hạnh phúc và mơ tưởng về môt thế giới khác
+Lúc con tàu đi qua Liên vẫn còn bâng khuâng dõi theo. Nó đánh thứ trong Liên những ý nghĩ mơ hồ mà em không lí giải được. Em chìm vào giấc ngủ với ý nghĩ ” minhg sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như ….một vùng nhỏ” Suy nghĩ ấy chứng tỏ Liên đã sớm có ý thức về bản thân mình , sự thức tình cái tôi cá nhân ấy đã gieo vào lòng người đọc niềm hi vọng rằng cô bé có tâm hồn tươi sáng kia sẽ không bị giam cầm trong kiếp sống tù đọng tăm tối này mãi mãi.

 

Đề 4. PHÂN TÍCH TÂM TRẠNG NHÂN VẬT LIÊN TRONG KHÔNG GIAN PHỐ HUYỆN (HAI ĐỨA TRẺ – THẠCH LAM)

Yêu cầu:

Nội dung: Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên từ chiều buông, đêm xuống khuya về ( khi có chuyến tàu đêm qua phố huyện)

– Từ cảnh bên ngoài, cần làm nổi bất tâm trạng và những suy nghĩ , ước vọng của nhân vật Liên

– Kiểu bài: Phân tích tâm trạng nhân vật trong tác phẩm tự sự

Dàn bài:

MB:

– Trước Cách mạng tháng Tám Thạch Lam là cây bút viết truyện ngắn tài hoa suất sắc. Ông có những truyện viết về cuộc sống vất vả, cơ cực, bế tắc của những người nông dân, tiểu tư sản, người dân nghèo thành thị.

– Tiêu biểu cho chủ đề trên là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” (1938). Nhân vật chính của truye65nnga82n là Liên. Tác giả đã miêu tả khá tinh tế tâm trạng buồn của cô  trong khoảng thời gian từ chiều đến khuya của mo65tngay2 làm việc bình thường. Tâm trạng của Liên là nỗi buồn của những kiếp người nghèo khổ, mỏi mòn nơi phố huyện.

TB:

a)      Tâm trạng của Liên khi chiều buông:

– Chứng kiến cảnh chiều muộn, vời sự lụi tàn dần của ánh sáng , nghe văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài cánh đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào, “Liên cảm thấy lòng buồn man mác”. Liên không hiểu tại sao mình buồn. Thật ra đêy là biểu hiện cụ thể của một trái tim nhạy cảm biết rung động với những đồi thay trong thiên nhiên lúc chiều buông.

– Khi chứng kiến cảnh chợ tàn lúc chiều buông: “ trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị ,lá nhãn và bã mía,” mấy đứa trẻ con nhà nghèo “nhặt nhạnh thanh nứa thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”, Liên càng thấy lòng xao xuyến, càng buồn hơn. Cô động lòng thương những đứa trẻ nhưng cô cũng chẳng có tiền mà cho chúng . Liên và những đứa trẻ có điểm giống nhau là lúc nào cũng phải lo toan kiếm sống.

– Nhìn thấy hình ảnh những con người nghèo khổ của phố huyện ki chiều buông, càng làm cho nỗi buồn của Liên tăng hơn:

+ Câu chuyện với chị Tí càng khía sâu nỗi buồn ở Liên, hai người càng cảm thấy ngao ngán cho công việc kiếm sống vất vả mà chẳng có “ăn thua gì”

+ Hình ảnh bà cụ Thi với tiếng cười khanhkha1ch gieo vảo lòng Liên một cảm giác khắc khoải khó hiểu, khiến Liên đứng sững nhìn theo cụ đi dần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng.

b)      Tâm trạng của Liên khi đêm xuống:

– Liên cảm nhận bóng tối của phố huyện: “tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”

– Liên chú ý đến những điểm sáng trong bóng đêm: cô thích thú quan sát những vì sao, các ngọn đèn.

– Ánh lửa ở gánh phở bác Siêu gợi Liên nhớ về một quãng đời sung sướng hạnh phúc khi còn sống ở Hà Nội, trong lòng Liên nôn nao một niềm mong đợi mơ hồ.Liên ý thức về ánh sáng từ ngọn đèn của chị Tí “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Vậy mà “tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại, nơi hàng nước của chị Tí”, ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn ấy tỏa chiếu nỗi buồn trên những khuôn mặt lam lũ, vất vả khiến Liên càng buồn thương, day dứt. Liên ý thức được về cảnh sống của mình, cô muốn vươn lên, vượt ra khỏi cảnh sống đó.

c) Tâm trạng của Liên khi cô đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện

– Trong bóng đê, trongno64i buồn, Liên chờ đợi và hy vọng một cái gì tươi sáng. Chuyến tàu đêm là hình ành chảu một thế giới khác “khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Vì vậy không chỉ có chị em Liên mà tất cả những người dân nơi phố huyện “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống khổ cực hàng ngày của họ”. Tất cả đều là những conngu7o7i2 đáng thương và đáng trân trọng vì họ đã không sống cam chịu mà luôn muốn vươn ra ánh sáng.

– Chuyến tàu đêm là hình ảnh của Hà Nội của  hạnh phúc gợi nhớ kỉ niệm êm đềm về tuổi thơ của Liên. Chuyến tàu được miêu tả với nhiều ánh sáng màu sắc. “Ngọn lửa xanh biếc,làn khói bừng sáng trắng, các toa tàu đèn sáng trưng, những đốm than đỏ bay tung…-> chuyến tàu đi qua chỉ trong một khoảng khắc nhưng cũng đủ khuấy động niềm mong mỏi về một sự đổi thay cho những kiếp sống tàn lụi, lay lắt.

-> Tóm lại, qua việc dựng lại bức tranh sinh hoạt của phố huyện nghèo lúc chiều buông, đêm xuống  và khuya về ở phố huyện cùng với miêu tả tâm trạng đợi tàu đêm của hai chị em Liên, Thạch Lam đã thể hiện nỗi cảm thương mênh mang của mình với những kiếp người bé mọn mà cuộc đời tưởng như không biết đến niềm vui. Tác giả đã thể hiện tâm trạng của nhân vật Liên để gợi lên ở người đọc sự day dứt trước cuộc sống quẩn quanh bế tắc.

KB:

– Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” không chỉ dừng lại ở cảnh đời bên ngoài mà còn đi sâu vào khía cạnh tâm hồn của nhân vật, ghi nhận những chuyển biến tinh tế trong tâm trạng nhân vật. Tác phẩm mang ý nghĩa nhân đạo rất lớn khi đề cập đến cảnh đời và số phận của lớp dân nghèo  nơi phố huyện

– Truyện ngắn  Hai đứa trẻ” giàu chất trữ tình, chất thơ,lời văn nhẹ nhàng, trong sáng.

Bài viết tham khảo:

Thạch Lam xuất hiện trên văn đàn Việt Nam1930 – 1945 như một làn “gió đầu mùa” tinh khiết, êm nhẹ. Người đọc văn Thạch Lam cảm nhận được một tình người đằm thắm trong một giọng văn tha thiết. Cái đẹp tự lan toả, “tiềm tàng trong mọi vật bình thường” khiến cho “lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Thạch Lam đã khơi gợi ánh sáng cho những tâm hồn từ ngay những mảng đời chìm trong bóng tối. Truyện ngắn Hai đứa trẻ – câu chuyện về hai chị em ở phố huyện nghèo – như một bài thơ thấm đẫm tình người. Thế giới trẻ thơ gợi lại cho mỗi chúng ta những rung động êm đềm mà sâu sắc, mở ra những suy tư về thân phận con người.

Trong văn xuôi Việt Nam những năm 30 của thế kỉ XX, có lẽ khó ai tìm ra được những nét đẹp tiềm ẩn trong cái bình thường giỏi như Thạch Lam. Các nhà văn Tự lực Văn đoàn, những anh em của Thạch Lam cũng hay nói về cảnh nhà quê, người nhà quê nhưng đã tước đi vẻ hồn nhiên tươi tắn chân thực của cuộc sống ấy, thay vào đó là những cái nhìn có phần xa lạ, kẻ cả, đôi chút khinh miệt. Có lẽ, trong số anh em họ Nguyễn Tường, Thạch Lam là người sống sâu nặng hơn cả với kí ức tuổi thơ của mình. Trong tâm tư của nhà văn, phố huyện Cẩm Giàng (Hưng Yên) và người chị tần tảo đã trở thành chuỗi kỉ niệm đẹp đẽ nhất, khiến cho ông khi viết về hình ảnh phố huyện vẫn còn vẹn nguyên những ấn tượng sâu đậm của tuổi thơ. Hai chị em Liên và An chính là những gì Thạch Lam yêu mến, gắn bó thuở thiếu thời.

Người đọc không thể nào quên ấn tượng về một không gian phố huyện chuyển dần vào bóng đêm. Những âm thanh của một ngày sắp tắt cùng với một phương tây cháy rực gieo vào lòng người nỗi buồn mơ hồ. Một phiên chợ chiều tàn, dăm đứa trẻ nhặt nhạnh những thứ vương vãi xung quanh chợ không chỉ đánh động tình thương của cô bé Liên đầy lòng trắc ẩn mà còn khiến chúng ta cũng bồi hồi vì những nét thân thuộc của quê hương, một “mủi riêng của đất, của quê hương này”. Tài năng của Thạch Lam đã giúp chúng ta nhận ra cái hồn quê hương dìu dịu thấm vào từng cảnh vật và những sinh hoạt ban đêm của những con người phố huyện. Tất cả những gì nhà văn mô tả đều hết sức bình thường trong một câu chuyện không có cốt truyện. Khung cảnh và những con người đều như hướng vào một chủ đích của nhà văn: khắc hoạ những nét bình dị, lặng lẽ trong một không khí xã hội đang chìm trong bóng đêm dày đặc của cuộc sống quẩn quanh không lối thoát.

Những nhân vật phố huyện: mẹ con chị Tý với hàng nước, bác Siêu bán phở, gia đình bác Xẩm… từng ấy nhân vật đã làm nên cái đặc trưng của phố huyện. Đó là những con người đang lầm lũi trong cuộc mưu sinh, tâm trạng lúc nào cũng lo toan và nhẫn nhịn. Họ cùng chờ đợi, không phải là những người khách mà chính là đang mòn mỏi hy vọng . Những cuộc đời trong bóng tối ấy, cũng giống như không gian phố huyện kia, dày đặc tăm tối nhưng vẫn loé lên ánh sáng của một thế giớ khác, một thứ ánh sáng mong manh nhưng không hề lịm tắt.

Không phải ngẫu nhiên nhà văn đã miêu tả cuộc sống phố huyện gắn với ba thời điểm nối tiếp: hoàng hôn – tối – khuya. Bóng tối càng dày đặc bao nhiêu thì khát vọng hướng về ánh sáng càng khắc khoải bấy nhiêu. Ánh đỏ rực của buổi hoàng hôn dẫu đẹp nhưng lại gieo vào lòng cô bé Liên nỗi buồn man mác vì cuộc sống của hai đứa trẻ trong một gia đình sa sút đã mang sẵn những dư vị của bóng tối. Đó là thời điểm bắt đầu những lo toan của thế giới người lớn nên “bóng tối ngập đầy dần” đôi mắt Liên. Liên đã chứng kiến những con người “đi lần vào bóng tối”, “từ từ đi vào bóng đêm” và rồi từ bóng tối mênh mông lại hiện lên những bóng đời chập chờn ánh sáng ngọn đèn, bếp lửa. Ánh sáng của thực tại chỉ còn là “nguồn sáng” xa lạ của những vì sao trên trời. Là những “khe sáng”, “quầng sáng”, “hột sáng” mong manh của những con người cùng sống nơi phố huyện nghèo. Sự sống như ẩn mình trong ánh sáng nhưng vẫn không xua tan được những ám ảnh bóng tối. Nó chỉ đánh thức những hoài niệm tuổi thơ. Những ngày tháng êm đềm của chị em Liên khi cảnh nhà chưa sa sút. “Vùng sáng rực và lấp lánh” của quá khứ là một tương phản để cắt nghĩa cho tâm trạng của Liên: “Đêm tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa”. Đó là sự chấp nhận, là thực tế đáng buồn mà Thạch Lam đã nhận ra từ cuộc sống của hai đứa trẻ.

Hoàn cảnh không cho phép hai chị em Liên – An được sống bình thường như bao đứa trẻ khác, tuổi thơ của những đứa trẻ con nhà nghèo không có ánh sáng, đang cằn cỗi dần cùng bóng tối. Phải chăng vì vậy mà cô bé Liên dễ động lòng trắc ẩn trước “mấy đứa trẻ con nhà nghèo”, còn An dù thèm nhập bọn cùng đám trẻ con chơi đùa, nhưng nhớ lời mẹ dặn nên đành ngồi im. Cảnh nghèo dễ khiến tạo ra mặc cảm, dù cho là những đứa trẻ. Thạch Lam dường như không muốn để cho những cảm giác bi kịch đè nặng lên số phận những con người nghèo khổ, bằng thái độ trân trọng, ông đã nâng đỡ cho các nhân vật của mình, vực dậy những khát khao đổi đời ngay trong những khoảnh khắc ánh sáng mong manh nhất: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”…

“Một cái gì tươi sáng hơn”, bản thân họ cũng không hề biết trước, chỉ là những trông ngóng mơ hồ. Nhà văn không thể chỉ ra “con đường sáng” cho những con người nghèo khổ ấy. Có lẽ, ông cũng không mơ hồ, ảo tưởng như những cây bút Tự lực Văn đoàn khác như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo để mong chờ một thay đổi theo khuynh hướng cải lương, một tình thương bố thí nửa vời. Ông cũng không trông chờ nhiều vào hoạt động của “Hội Ánh sáng” do các anh em của ông tổ chức sẽ cải thiện cuộc sống dân nghèo. Bằng trực giác và sự nhạy cảm của tâm hồn nghệ sĩ giàu yêu thương, Thạch Lam đã phát hiện những nội lực để vươn lên của con người từ chính nền cuộc sống nghèo khổ. Ông đã diễn giải sâu sắc bằng hình tượng chuyến tàu đêm ngang qua phố huyện.

Chuyến tàu ấy là hoạt động cuối cùng về đêm của phố huyện, là dịp cuối cùng để cho những người bán hàng đêm như chị em Liên mong “may ra còn có một vài người mua”. Nhưng vượt lên cuộc sống thường nhật mà nỗi thất vọng lớn hơn niềm hy vọng, là sự háo hức trông đợi chuyến tàu “mang ánh sáng của một thế giới khác đi qua” để con người không đánh mất niềm tin vào sự sống . Vì vậy Thạch Lam đã dành những câu văn thật tinh tế để diễn tả cảm giác đợi chờ ở Liên và An. Đặc biệt, cô bé Liên đã chiếm được nhiều cảm tình ở người đọc. Không chỉ vì Liên là người chị lớn đảm đang, tay hòm chìa khoá của mẹ, vì dẫu cho cô bé Liên có tự hào về chiếc chìa khoá đeo vào chiếc dây xà tích bạc thì điều ấy chỉ làm người đọc buồn và thương cảm cho một cô bé sớm già trước tuổi. Điều mà Thạch Lam làm cho người đọc yêu mến nhân vật chính là khoảnh khắc ông giúp phát hiện vẻ đẹp giàu nữ tính của nhân vật: “Liên khẽ quạt cho em, vuốt lại mái tóc tơ (…) Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Đây là trang văn đậm chất thơ, đem đến sự ngọt ngào của tình cảm nhà văn dành cho Liên, tạo ra cảm xúc đồng điệu ở người đọc. Một cô bé giàu mộng mơ, ắt hẳn không thể để tâm hồn ngập dần trong bóng tối. Đó là tiền đề để Liên có thể cảm nhận ánh sáng chuyến tàu đêm khác hẳn mọi người: Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực,vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Ánh sáng rực rỡ của con tàu mang hình ảnh chứa đựng khát vọng về tương lai, đánh thức sức sống mãnh liệt của tâm hồn Liên. Không phải một lần Liên đón nhận ánh sáng ấy mà đêm nào cô cũng được sống trong những giờ phút mơ tưởng này. Mơ ước lãng mạn bao giờ cũng là cơ sở của hành động. Thạch Lam đã đem đến một thông điệp giàu ý nghĩa về con người, tạo nên giá trị nhân văn của tác phẩm: hãy tin tưởng và trân trọng khát vọng của con người, dẫu thực tại còn đầy bóng tối như không gian phố huyện nghèo kia, nhưng con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn hướng về ánh sáng. Cảm quan lãng mạn không cho phép nhà văn đi xa hơn, nhưng cũng giúp cho người đọc thêm yêu mến những con người nghèo khổ đầy hy vọng.

Từ tình cảm dành cho những con người bé nhỏ, Thạch Lam còn làm sống dậy những tình cảm gắn bó với quê hương, mảnh đất và con người bình dị mà thân thương. Có thể xem đó là một khía cạnh khác của tâm hồn nhân ái Thạch Lam. Ông nói về những cảm nhận của hai chị em cũng là phát hiện về mối quan hệ gắn kết giữa con người với mảnh đất. Dường như những hương vị bình thường, mùi đất, mùi chợ cũng là một phương diện của tâm hồn hai đứa trẻ, cũng là sự tha thiết trìu mến của nhà văn hướng về vùng đất Cẩm Giàng từng lưu dấu tuổi thơ. Những chi tiết bình thường nhất nơi phố huyện còn lan toả cảm giác ấm áp ân tình của Thạch Lam đến tận bây giờ. Bóng tối mênh mông là miền đời không thể lãng quên và không được phép lãng quên, bởi ở đó có những con người mà nhà văn thương mến nhất.

Huyền Kiêu, một người bạn của Thạch Lam đã rất có lí khi cho rằng “Thạch Lam là một người Việt Nam thành thực nhất”, có lẽ bởi nhà văn đã yêu cuộc sống và những con người nghèo khổ qua những trang văn thấm đượm tình người, những trang văn “rất nhiều Thạch Lam trong đó”. Độ chân cảm từ những trang văn Thạch Lam sẽ còn làm cho nhiều thế hệ người đọc còn bồi hồi xúc động./.

2 PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM TRẠNG NHÂN VẬT LIÊN

Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổI rất đáng coi trọng và khẳng định, Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởI ở đó tài năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân viết : “Nói đến Thạch Lam ngườI ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài”. Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn : “ MỗI truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” . Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam cũng là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương” như thế . Thạch Lam tuy có chân trong Tự lực Văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lạI theo một hướng riêng. Ông xây dựng cho mình một thế giớI nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía những ngườI nghèo khổ vớI tấm lòng trắc ẩn chân thành? ( Phong Lê ). Thế giớI nhân vật là những lớp ngườI nghèo khổ cơ cực bế tắc nói chung, những nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và tộI nghiệp: Họ thường nép mình trong bóng tốI của một không gian hẹp thường là nơi phố huyện tiêu điều, xơ xác hoặc những xóm nghèo ngoạI ô Hà NộI. Nhân vật của ông chủ yếu là con ngườI thân phận, họ thường tìm kiếm nơi ẩn nấu trong gia đình, giữa bốn bức tường hoặc trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏI cuộc đờI, nơi xã hộI đầy bất trắc bên ngoài. Có lẽ như thế con ngườI mớI cảm nhận hết về mình và về cuộc sống xung quanh. Dường như họ thu mình trước thực tạI để xót mình và thương ngườI, để bâng khuâng man mác khi hồI tưởng về quá khứ? Không dám nhìn về tương lai, mang nặng một mặc cảm mờ mịt trong lòng khi nghĩ về mai sau.

Cảm quan trong truyện của Thạch Lam có thể gói gọn trong ba chữ đó là niềm xót thương. Những con ngườI nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn học trong một không khí trữ tình đầy mến thươngtoả ra một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả ..

Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ nhiều chất trữ tình: MỗI truyện ngắn của Thạch Lam có cấu từ và giọng điệu như một bài thơ trữ tình, gợI sự thương xót trước số phận của những con ngườI nhỏ bé bất hạnh. Một giọng văn bình dị mà tinh tế. Âm điệu man mác bao trùm hầu hết truyện ngắn và thiên nhiên cũng trữ tình. Văn cứ mềm mạI, uyển chuyển, giàu hình ảnh, nhạc điệu . Đó chính là chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, “có cái dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây” khiến ta vương phải.

“ Hai đứa trẻ” là đặc trưng của hồn văn Thạch Lam. Nó là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương”
Truyện “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một phố huyện gần một cái ga xép. Đêm đêm những bóng ngườI bình thường cũng lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng ngườI ấy cũng lù mù như nhiều chấp lửa ở những nguồn sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có tiếng động mạnh và những luồng sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em ngày nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua ra mớI chịu đóng cửa hàng. Nguyễn Tuân đã tóm tắt truyện như thế. Đúng vậy, truyện này tưởng như không có cốt truyện, không có biến cố. Nó chỉ là biến diễn của một thờI gian ngắn, từ khoảng năm giờ chiều khi “phương tây đỏ rực như lửa cháy” đến chín giờ tốI “đêm tốI bao bọc chung quang”; nó chỉ là biến diễn bên trong “tâm hồn ngay thơ của hai chị em Liên, An trong một buổI tốI của các thường ngày tưởng như “ tẻ nhạt”, “không có gì” … Song vượt lên trên các thường ngày, Thạch Lam bằng con đường nghệ thuật riêng vớI thế giới nghệ thuật riêng, một thờI gian riêng, không gian riêng, nhân vật riêng, ngôn ngữ riêng đã tạo nên khí vị nhẹ nhàng, buồn man mác, đậm đà hương vị đồng quê; nhiều bóng tốI mà chói sáng mốI tình thương yêu hiền hoà, nhân hậu, xót thương chân thành, phảng phất thơ toả lên từ quê hương. Truyện không có cốt truyện như chất chứa biết bao cảnh đờI, bao tâm trạng, tâm cảnh sâu lắng tinh tế.
Diện mao phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một khung cảnh buồn, là cảnh chiều tàn đi dần vào đêm khuya. Hàng ngà, những cái ồn ào của buổI sáng làm không khí bị nhoè đi trong nắng như đến chiều thì cái bộ mặt thật của phố huyện hiện ra vớI tất cả những cái tiêu điều, xác xơ, tàn lụi. “Chiều chiều rồI” như là một lờI thảng thốt, bàng hoàng như một tiếng thơ dài. Thế là một buổI chiều nữa lạI đến, chiều là buồn. Ấn tượng về buổI chiều khá sâu đậm. Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ mặt của phố huyện. Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, biểu hiện thuần phong mĩ tục của làng quê. NgườI ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều của phố huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lạI của buổI chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của phố huyện. Tả những con ngườI cuốI cùng trao đổI vớI nhaurồI bước vào các ngỏ tối. Rác chỉ là những thứ phế thảI vớ vẫn “rác rưởI, vỏ bưởI, vỏ thị, lá nhãn và bã mía, những thanh nứa thanh tre…Lũ trẻ vẫn còn ra bòn mót, nhặt nhạnh. Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã kém lắm, đã yếu lắm rồi. NgườI bán trông vào ngườI mua và ngược lạI nhưng chỉ là sự vô vọng, lẩn quẩn, trông chờ vào sự vô vọng. Mùi vị toả ra trong không gian này là một thứ mùi đặc trưng để nói tớI sự nghèo nàn. Đó là mùi bã mía, vỏ bưởI, vỏ thị, đất ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái… Cái mùi vị ấy cũng góp phần làm cho khung cảnh thêm phần tàn tạn héo úa, lụI dần.

Có thể thấy xung đột giữa bóng tốI và ánh sáng khá mạnh mẽ. Ánh sáng và bóng tốI đang giao tranh nhau. Ánh sáng yếu dần ban đầu là “ bầu trờI đỏ rực như lửa cháy, mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” sau đó là bóng tốI hiện dần ở bóng xẩm trên ngọn tre và cuốI cùng bao trùm lên khu phố huyện là cái bóng tốI mênh mông của nó, tín hiệu là ngọn đèn Hoa Kỳ của chị Tí. Ở đây ánh sáng và bóng tốI còn mang ý nghĩa tượng trưng, ánh sáng là ước mơ , bóng tốI là nghèo nàn và cô đơn; mở đầu chuyện ánh sáng tắt dần, bóng tốI chiếm lĩnh. Chính cái ánh sáng cuốI cùng ấy báo hiệu rõ màn đêm- màn đêm vừa sâu vừa dày sẽ diễn ra tiếp đó. Ánh sáng càng ngày càng thu nhỏ phạm vi hoặc ở xa manh mảnh, li ti như ánh sáng của ngôi sao trên bầu trờI hoặc yếu ớt ảm đạm lọt qua khe cửa khép hờ hoặc toả trên cái bóng tre của chị Tí. Ánh sáng ấy biểu hiện một sự tàn lụI ở cường độ thấp và khả năng thu hẹp của nó. Tiếng trống thu không rờI rạc, chậm, lẽ tẻ và cứ tắt lịm dần. Nhưng âm thanh nhỏ nhất như tiếng muỗI vo ve gợI cảm giác về sự ngưng đọng. Nó rơi tỏm vào trong không gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh không có hồI âm, nó chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn ngườI của phố huyện lúc chiều tối. Tất cả hô ứng, qui tụ để cho ngườI đọc thấy rõ được khung cảnh thật của phố huyện một ngày tàn. Thạch Lam miêu tả nhận xét một cách tinh tế, sâu xa bước đi thờI gian của nơi phố nghèo. NgườI đọc dường như thấy được bước chuyển biến của thờI gian rung lên bằng ngôn ngữ riêng. Sức rung động của câu văn có khả năng đánh thức con ngườI hãy cảm nhận thật tinh tế khung cảnh phố huyện và tâm sự của Thạch Lam.
Trên cái nền ấy, những cảnh đờI, những con ngườI, đúng hơn là những phiến cảnh về cuộc đờI, về con ngườI bé mọn, hoàn toàn không có ước vọng, khát khao được khắc hoạ rõ nét. Họ nói chuyện vớI nhau nhưng dường như chẳng có nộI dung. Họ có đi lạI, ăn nói vớI nhau nhưng chỉ thấy họ vừa lòng thoả mãnvớI cảnh chật hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán đong hơn một ngấn rượu trong chiếc cút bé nhỏ …Chị Tí là điển hình cho ngườI dân phố huyện vớI nhịp sống quẩn quanh : ban ngày mò cua bắt tép, ban tốI chị mớI mở cái hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không được gì “sớm muộn mà có ăn thua gì?” mà vẫn cứ ra. Đây không phảI là sự sống thực sự mà là sự sống cầm chừng cầm cự vớI cuộc sống, giao tranh, tranh giành vớI cái đói,cái chết trông chờ vào những ngườI trên tàu là qua bấp bênh có khác gì trông chờ vào những ngườI khách ấy để sống. Cách chị Tí trả lờI câu hỏI của Liên: không trực tiếp trả lờI ngay mà còn làm thêm để chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồI mớI chép miệng trả lờI : “ỐI chao, sớm muộn mà có ăn thua gì”. Câu văn cho ta thấy nhịp sống chập chạp, lẩn quẩn của nhân vật. Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhưng nhưng nguy cơ lạI lớn hơn vì thứ mà bác bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác Xẩm góp tiếng đàn run bần bật trong đêm tốI, mà không hề có tiếng động nào của một đồng xu. Bà cụ là một con ngườI bị tàn lụI, héo úa và cho ta cảm giác rợn ngườI, kinh hoàng. Bà là kiếp ngườI đáng sợ ở chi tiết vừa đi vào bóng tốI vừa cườI khanh khách. Cách xưng hô vớI Liên “chị” đã kéo xa khoảng cách tình giữa con ngườI vớI con gnườI vốn nó rất cần trong hoàn cảnh cầm chứng này. Cụ Thi điên là một nạn nhân đầy đủ nhất của kiếp ngườI, như một cái cây đã tàn lụI quá nhiều – kiếp ngườI héo hắt – tàn lụi. Cụ Thi xuất hiện chỉ trong mấy dòng truyện ít ỏI nhưng đã ám ảnh ngườI đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành.
Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đờI buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay động bóng hai chị em nhỏ tuổI cũng âm thầm không kém vớI cái “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu” mà khách hàng là những ngườI khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổI nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ “uống một hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp ngườI lay lắt nhưng cuộc sống của Liêncũng cầm chừng không kém. NỗI khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗI khổ vật chất của những ngườI khác, đó là bi kịch tinh thần bởI họ khổ mà không biết mình khổ còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Biện pháp duy nhất để khuây khoả nỗI hắt hiu, đơn điệu chỉ là đêm nào cũng mỏI mắt cố gắng chờ đợI một chuyến tàu đi qua : “đó là hoạt động cuốI cùng của đêm khuya”.

Ánh sáng của đoàn tàu là mảng ánh sáng rực rở, mạnh mẻ song ở ánh sáng này cũng chỉ vụt loé lên nhanh như một vì sao băng dể rồI vĩnh viễn tắt lịm trong màn đêm khiến ta phảI ngơ ngác, bàng hoàng. Dường như “Hai đứa trẻ” là truyện của những nguồn ánh sáng, hồi tưởng của Liên cũng là hồI tưởng về ánh sáng. Lần đầu tiên Liên “nhớ lạI” Hà NộI, một kí ức không rõ rệt, Hà NộI là một vừng sáng rực lấp lánh “và” Hà NộI nhiều đèn quá. Lần thứ hai, Liên mơ tưởng “Hà NộI xa xăm” , “Hà NộI sáng rực vui vẻ và huyên náo” . Cái cảnh tượngcủa quá khứ đẹp đẽ ấy tương phản gay gắt vớI cái tốI mịt mù dướI gốc bàng của hiện tạI đang diễn ra. Quá khứ và hiện tạI, ánh sáng và bóng tốI, lãng mạng và hiện thực, giấc mơ nghèo và sự thật nghèo khổ, tất cả tạo nên biến động sâu kín trong tâm hồn Liên. Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sángcủa mơ ước, nó chỉ thoáng qua, tắt lịm và để rồI tất cả lạI chìm trong bóng tốI mênh mông, buồn tẻ.
Tất cả các nhân vật đó đã hiện ra dướI cái nhìn xót thương của ngườI tái hiện. Và nỗI thương cảm của Liên đốI vớI mấ đứa trẻ đi nhặt rác, vớI chị Tí, vớI bác Siêu, vớI cụ Thi điên cũng là cảm xúc của chính Thạch Lam. Thạch Lam đã hoá thân vào nhân vật để nói cái cảm quan xót thưong của mình. Đoàn tàu vớI thoáng sáng vụt qua rất nhanh rồI tắt lịm đã thay đổI một chút ít không khí của thế giớI hiện tạI, phảI chăng đó là khát vọng thoát khỏI cuộc sống tù đọng dù chỉ trong chốc lát của Thạch Lam. Nhà văn day dứt về một kiếp sống tàn lụI, héo úa, đơn điệu, hư vô chứ không chỉ có xót thương thông thường. Chính vì vậy mà ông trình bày hiện thực của phố huyện mang ý nghĩa khái quát lớn của xã hộI Việt Nam về sự trì trệ. Nếu đặt trong dòng thờI sự văn học buổI ấy, ta thấy Thạch Lam phản ánh khá rõ nét một hoàn cảnh, tâm lí thờI đạI mã Nam Cao đã phảI từng thốt lên : “Cuộc đờI đang cùn đi, gỉ đi, nổI váng lên”…

“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn như một bài thơ trữ tình bởI cấu từ, giọng điệu, ngôn ngữ của nó, giống như một bài thơ.

Cấu từ của truyện là cấu từ vòng tròn xoay quanh hình ảnh bóng tốI được lặp đi lặp lạI nhiều lần (không dướI ba mươi lần). Khi miêu tả cảnh trờI phố huyện cũng như cảnh đờI những con ngườI phố huyện, tác giả đặc biệt có ý sử dụng một cách công phu yếu tố nghệ thuật :hình ảnh bóng tốI bao trùm cảnh vật và con ngườI mà tác giả dụng công miêu tả từ nhiều thờI điểm, từ nhiều góc nhìn, từ nhiều tâm cảnh khác nhau. Bóng tốI như một ám ảnh, như một sự hăm doạ, như một quái vật đè nặng lên cảnh vật và con người. Tác giả nhắc đến bóng tốI nhiều lần dướI những cách nói hình ảnh từ ngữ tuy có khác nhau : “buổI chiều hòn than sắp tàn”, “mặt đen lạI”, “chiều, chiều rồI” , “bóng tốI ngập đầy” , “bước của buổI chiều” , “ngày tàn” . Tác giả miêu tả rất nhiều trạng thái khác nhau của bóng tốI đến vớI tiếng trống thu không tư trên chòi cao, bóng tốI sắp đến vớI những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, bóng tốI đến vớI dãy tre làng đen lạI, bóng tốI đến vớI cánh muỗI vo vo, bóng tốI đến vớI những viên đá nhỏ trên con đường mấp mô, bóng tốI trùm lên đường phố và các ngõ huyện… Nói tóm lạI, bóng tốI được lặp đi lặ lạI đầu và cuốI huyện. Bóng tốI như một cái gì hãi hùng đang hoạt động, đang thâm nhập, đanglen lỏI, luồn lách, bám sát vào mọI cảnh vật, mọI trạng thái hoạt động âm thâm của mọI sinh vật. Nó như cái nền không gian nghệ thuật của tác phẩmvà không gian xã hộI của con người. BởI tốI là lúc chị Tí xuất hiện “tốI đến chị mớI dọn cái hàng dướI gốc cây bàng”; về đêm bác phở Siêu mớI xuất hiện như một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tốI, mất đi rồI lạI hiện ra … bóng tốI là nơi cụ Thi mang đến và mang đi “một tiếng cườI khanh khách nhỏ dần” , một cụ Thi cuộc đờI không rõ ràng nhưng rõ ràng là đang chứa ẩn một nỗI lòng u uất cứ chìm trong bóng tốI; vợ chồng bác Xẩm thu gọn trên manh chiếu chật hẹp, vớI chị em Liên, tác giả kể tỉ mỉ hơn nhưng tâm trạng, những suy nghĩ của hai đứa trong đêm tốI: đêm tốI ngập đầy đôi mắt của Liên, Liên thích ngồI yên lặng ngắm nhìn trong đêm tốI, về khuya, Liên ngồI yên lặng trong đêm chờ đón đoàn tàu, khi tàu vụt qua, Liên nhập dần vào giấc ngủ yên tĩnh như đêm ở trong phố tịch mịch và đầy bóng tối…

Lặp đi lặp lạI gián tiếp hay trực tiếp hình tượng bóng tốI cũng chính là cách để tác giác bộc lộ chủ đề tác phẩm qua cảm quan xót thương và tạo cho truyện có âm hưởng, cấu từ như một bài thơ trữ tình.

Mặt khác, việc miêu tả những cảm giác thiên nhiên rất hiếm trong hiện thực phê phán nhưng trong “Hai đứa trẻ” , Thạch Lam luôn luôn miêu tả khi có cơ hội. Thiên nhiên bao bọc truyện vớI nhiều trạng thái phong phú. Tác giả còn chú ý khắc hoạ được cảm giác mơ hồ về giờ khắccủa ngày tàn và về vũ trụ thăm thẳm bao la rất gần ũi mang sắc thái dân tộc, cũng chính vì vậy mà nhân vật chính của câu chuyện là Liên cứ mang theo vẻ hồn man mác.

Chất thơ còn được thể hiện ở ngữ điệu nhỏ nhẹ, man mác thú vị ở lờI văn, ở những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dể rung động. Truyện cứ trảI dài ra như một bài thơ, lắng sâu thanh lọc hồn ta. Chất nhạc thấm trong từng câu văn thấm thía. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, đầy ưu ái. Có thể nói “ hai đứa tẻ” là một bài thơ trữ tình trọn vẹn của Thạch Lam.
Khi nói “mỗI truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” thì ngườI nói muốn nhấn mạnh cả về nộI dung lẫn hình thức của truyện. NộI dung thể hiện hình thức và ngược lại. Nó là sự gắn bó hoài hoà để tạo nên tác phẩm. Văn phong của Thạch Lam được thể hiện đặc trưng trong “Hai đứa trẻ”, và tôi muốn kết thúc bài viết này bằng ý kiến của Nguyễn Tuân: “Ngày này đọc lạI Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học.”

Trong các nhà văn lãng mạn nổi tiếng (1930-1945), Thạch Lam có phong cách riêng biệt không lẫn với bất kì nhà văn nào. Đang khi các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng thiên về tần lớp trên của xã hội thì Thạch Lam lại viết về những con người bé nhỏ, nghèo khổ , sống trong bóng tối. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng với lối quan sát độc đáo và phân tích tâm lí tinh tế. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam cho lí tưởng xã hội và quan điểm thẩm mĩ của Thạch Lam.
Thạch Lam có lối viết truyện ngắn không có cốt truyện. Ông không kích thích người đọc bằng cốt truyện li kì và tình tiết éo le. Ông hấp dẫn người đọc bằng chất liệu bên trong của đời sống, bằng lí tưởng xã hội tiến bộ của nhà văn, bằng phân tích tâm lí tinh tế và bằng tinh thần lãng mạn của ông. Thạch Lam dồn nén các nhân vật, các sự kiện và diễn biến của con người, của hành động trong một thời gian ngắn và không gian nhỏ. Nó cũng thích hợp với những nhân vật nhỏ bé của ông. Truyện của Thạch Lam có chiều sâu hun hút, chiều sâu của cuộc sống, chiều sâu của lòng người và chiều sâu của mộng mơ, ước vọng.
Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, rồi gia đình bị sa cơ thất thế nên đã trở về quê, một phố huyện hẻo lánh. Hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. “Một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”. Buổi tối hai chị em cùng ngủ ở đây để trông hàng. “Đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh”, thế giới chung quanh hai đứa trẻ là những con người bé nhỏ đang thương, sống lẩn lút trong bóng tối. Đó là chị Tí ngày thì mò cua bắt ốc, tối đến dọn cái hàng nước dưới gốc cây bàng với ngọn đèn Hoa Kỳ leo lét. Đó là cụ Thi, bà lão hơi điên, tối tối đến cửa hàng Liên nốc một cút rượu rồi lẫn vào bóng tối với giọng cười khanh khách. Đó là bác phở Siêu gánh gánh phở, món quà xa xỉ của phố huyện, có chấm than hồng như ma trơi. Đó là vợ chồng bác Xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật lên trong yên lặng. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt thanh nứa thanh tre hoặc bất cứ cái gì có thể dùng được. Từ cảnh thiên nhiên đến số phận con người đều có một cái gì tàn lụi, không tương lai, leo lét một cách tội nghiệp, trong nghèo đói, buồn chán và tăm tối.
“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ”. Thạch Lam đã hiểu sâu sắc những con người bé nhỏ trong bóng tối này với những ước vọng đáng thương của họ.
Sống trong bóng tối, trong yên lặng, trong buồn chán, đêm đêm chị em Liên cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!”. Nghe lời dặn của bé An ta cảm thấy hai đứa trẻ tha thiết với chuyến tàu đêm đến biết chừng nào. Rồi đèn ghi ra. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vọng lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Và chỉ cần nghe chị Liên gọi: “Dậy đi An! Tàu đến rồi!” là Anh nhổm dậy dụi mắt và tỉnh hẳn. Rồi tiếng còi rít lên, đoàn tàu rầm rộ đi tới. Liên quan sát rất kĩ đoàn tàu, thèm khát như được nhìn một thế giới xa lạ “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng”. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Chuyến tàu đã xáo trộn cả cõi yên tĩnh của phố huyện. Chuyến tàu gợi cho Liên mơ tưởng: “Họ ở Hà nội về! Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”.
Rõ ràng là Liên và An đợi tàu không phải để bán ít quà vặt cho khách đi đường mà là một nhu cầu bức xúc về tinh thần của hai đứa trẻ, muốn trong chốc lát được thoát ra khỏi cuộc sống buồn chán tối tăm này. “Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Dưới mắt hai đứa trẻ, chiếc tàu là hình ảnh của một thế giới văn minh, giàu sang, nhộn nhịp, huyên nào và đầy ánh sáng.
Qua tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ, tác phẩm thể hiện một niền xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ được biết ánh sáng và hạnh phúc. Cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ và đói nghèo. Qua tâm trạng Liên, tác giả đồng thời cũng muốn thức tỉnh tâm hồn uể oải đang lụi tắt ngọn lửa lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ.

Thạch Lam (1910 – 1942) là cây bút có tài nhất trong Tự lực Văn đoàn. Hàng loạt những truyện ngắn của ông ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân ái , như làn gió đầu mùa se lạnh, thấm đẫm niềm cảm thông trước những số phận bất hạnh, những cuộc đời chìm trong bóng tối. Thấp thoáng trong những câu chuyện của ông bóng hình kỷ niệm của những ngày tháng đã hằn sâu trong ký ức tuổi thơ Thạch Lam. Hai đứa trẻ, tác phẩm thấm đượm tình người, như minh chứng tiêu biểu cho một tấm lòng nhân ái.

2. Có người đã nhận xét, mỗi truyện ngắn Thạch Lam như một bài thơ trữ tình. Thế Lữ, một người bạn của ông đã nhận xét: “Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong lời của văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương”. Tình thương với con người trong Hai đứa trẻ hình thành trên nền không gian phố huyện nghèo đầy bóng tối, với những cuộc đời lầm lụi, vất vả mưu sinh: mẹ con chị Tý, bác phở Siêu, gia đình bác Xẩm. Nhưng những nhân vật được ông dành cho “chút lệ thầm kín”, yêu thương chân thành nhất có lẽ là hai chị em Liên và An. Bởi hai đứa trẻ chính là một mảng đời nghèo túng của hai chị em Thạch Lam tại phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Thế giới phố huyện hiện ra qua góc nhìn trẻ thơ chứa đựng những bí mật mơ hồ. Hơn ai hết, Thạch Lam hiểu rõ tâm trạng của những em bé không có tuổi thơ khắc khỏai, đau đớn thế nào, bởi đó chính là những gì nhà văn đã từng trải nghiệm. Tất thảy những gì nhà văn đem đến trong câu chuyện không có cốt truyện này: không gian đìu hiu phố huyện, thời gian đi dần vào đêm khuya, đến những khỏanh khắc sống của Liên và An chờ đợi chuyến tàu cuối cùng băng qua phố huyện… mang ý nghĩa thông điệp của một tấm lòng chân thành : đừng bao giờ lãng quên những cuộc đời trong bóng tối! Và chính ông là người đã khơi dậy những nguồn sáng lạ kỳ để mỗi người đọc chúng ta thấm thía vẻ đẹp bình dị và sâu sắc của con người.

 

CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ

Đề 1 Có ý kiến cho rằng: “ Nét độc đáo trong truyện ngắn “ Chữ người tử tù” là vẻ đẹp về tài năng và khí phách của Huân Cao được cảm nhận qua con mắt và sự đánh giá của quản ngục” . Anh chị hãy chứng minh điều đó và cho biết dụng ý của Nguyễn Tuân thông qua cách miêu tả đó.

Dàn bài:

MB: Giới thiệu về Chữ người tử tù và nhân vật Huấn Cao.

TB: Vẻ đẹp của  Huấn Cao được soi chiếu dưới cái nhìn của viên quản ngục – người đại diện cho chính quyền phong kiến xưa, người có vị trí hoàn toàn đối lập với Huấn Cao. Tuy nhiên, qua cái nhìn của viên quản ngục, người đọc phát hiện ra vẻ đẹp lẫn niềm ngưỡng mộ, tôn kính mà quản ngục dành cho kẻ tử từ trong đề lao của mình.

– Vẻ đẹp khí phách:

+ Thể hiện qua hành động “rỗ gông” như một sự thách thức lại chính quyền, chế độ nhà tù.

+ Những lời đối đáp đầy khí phách, bản lĩnh của Huấn Cao dành cho quản ngục và viên thơ lại.

+ Thái độ thản nhiên nhận rượu thịt và ăn uống ngon lành.

 – Vẻ đẹp tài hoa:

+ Viết chữ đẹp nổi tiếng cả một vùng.

+ Chữ viết là nơi thể hiện chất tài hoa, khí phách, thiên lương của Huấn Cao “chữ ông Huấn Cao vuông lắm…”

– Vẻ đẹp thiên lương:

+ Biết quý trọng nhân cách con người dù người đó ở địa vị  hoàn toàn khác mình

+ Chỉ  ra con đường hướng thiện, thiên lương cho con người.

Vẻ đẹp của Huấn Cao đã soi chiếu tâm hồn cho con người quản ngục. Hai người gặp nhau, hiểu nhau bởi cùng có chung cái tâm, ngưỡng mộ cái tài, coi trọng khí phách.

KB: Khẳng định vẻ đẹp của : Chữ người tử tù” và tài năng của Nguyễn Tuân. Tài

năng thể hiện cái tài, cái tâm của người cầm bút và nâng niu vẻ đẹp của tâm hồn con người.

Bài viết tham khảo:

Chữ người tử tù là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân rút từ tập “Vang bóng một thời”. Truyện ngắn đã khắc họa được một hình tượng đẹp: hình tượng Huấn Cao. Đặc biệt, chân dung nhân vật ông Huấn Cao lại luôn được đặt trong sự quan sát, đánh giá của viên quản ngục. Chính điều này đã làm nên nét đặc sắc của tác phẩm.

Huấn Cao là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Lúc đầu, truyện có tên là “Dòng chữ cuối cùng” kể về những tháng ngày cuối cùng của Huấn Cao trong nhà ngục tỉnh Sơn. Hình tượng nhân vật này được xây dựng từ nguyên mẫu Cao Bá Quát – một danh sĩ thế kỉ XIX, nổi tiếng về tài viết chữ đẹp và khí phách lừng lẫy. Ông từng cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình thời vua Tự Đức. Ở Cao Bá Quát hội tụ hai phẩm chất: chí sĩ và nghệ sĩ. Nguyễn Tuân đã khai thác triệt để đặc điểm này khi xây dựng nhân vật, biến nhân vật Huấn Cao trở thành một ẩn dụ nghệ thuật, bộc lộ ý tưởng của mình: sự trân trọng, tôn thờ cái đẹp như một báu vật thiêng liêng vượt lên trên cõi đời phàm tục. Ở Huấn Cao có sự kết tụ hài hòa giữa tài năng, khí phách và thiên lương. Cái đẹp tuyệt đỉnh, tuyệt đối của nhân vật này, không phải hiện lên trực tiếp qua sự mô tả của tác giả mà thông qua sự đánh giá, nhận xét và thái độ của một nhân vật khác là quản ngục. Đây là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Tuân. Một mặt nó làm cho nhân vật hiện lên khách quan, tranh được mọi sự gò ép, áp đặt. Mặt khác, nó cũng có tác dụng như một chiếc đòn bẩy, tôn cái tài, cái đẹp, cùng những phẩm chất đáng quý của Huấn Cao lên gấp nhiều lần. Và như vậy, người đọc có cảm giác nhân vật đã trở thành một huyền thoại, sống mãi trong niềm tôn thờ, ngưỡng mộ của người đời. Điều này cũng phù hợp với quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân.

Cũng như rất nhiều nhân vật khác của Nguyễn Tuân, Huấn Cao hiện lên là người có tài năng khác thường. Nét tài hoa này trước hết ở tài viết chữ đẹp. Đó là tài viết chữ Hán – thứ chữ tượng hình – đã được người xưa nâng lên tầm nghệ thuật thư pháp. Việc chơi chữ đã trở thành một thú vui truyền thống đáng quý của dân tộc. Tuy chưa xuất hiện như tài viết chữ đẹp của Huấn Cao đã được viên quản ngục và thầy thơ lại nhắc đến với sự ngưỡng mộ. Ông là  người viết chữ đẹp “nổi tiếng cả tỉnh Sơn. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Nguyễn Tuân còn dùng thủ pháp đòn bẩy để tô đậm chất tài hoa khác thường của Huấn Cao qua việc diễn tả thái độ sùng kính của quản ngục. Ngay từ khi mới gặp Huấn Cao, thầy quản đã quên đi chức trách của một nhà hành pháp để khát khao có được chữ ông Huấn treo. Quản ngục sẵn sàng chịu nhục, thậm chí chịu chết chém để đạt  được mong ước bấy lâu. Điều đó có nghĩa, nhân vật này đã đặt chữ ông Huấn  – cái đẹp – lên cao hơn cả danh dự và tính mạng của mình. Thái độ của viên quản ngục tạo ra hai cái khác thường: tài hoa của Huấn Cao đạt đến mức khác thường và niềm đam mê cái đẹp của thầy quản cũng đạt tới mức khác thường.

Không chỉ tài hoa nghệ sĩ, Huấn Cao còn có khí phách – đây là nét mới của Huấn Cao so với các nhân vật khác trong vang bóng một thời. Trước hết, Huấn Cao lớn về tầm vóc tư tưởng. Ông là người dám từ bỏ công danh để xả thân vì nghĩa lớn, phất cờ dấy binh, chống lại triều đình, trở thành kẻ đại nghịch. Ở Huấn Cao, con người nghệ sĩ đã có sự kết hợp tuyệt đẹp với con người nghĩa sĩ. Bởi vậy, khi quản ngục nhận xét về chữ viết của Huấn Cao thì bên cạnh cái tài hoa còn có cái chí lớn: “Những nét chữ tròn, vuông, tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”

Bên cạnh tầm vóc tư tưởng, nhân vật này còn lớn lao ở tư thế bất khuất. Huấn Cao bị bắt, bị khép vào tội đại hình nhưng ông vẫn giữ tư thế đàng hoang, ung dung đến khinh bạc. Để khắc học nét tính cách này, Nguyễn Tuân đã huy động  rất nhiều chi tiết gai góc để phô lộ cái liều, cái “ngông” của một trang anh hùng giữa ngục thất. Nào là tính ông Huấn vốn “khoảnh, ngoài vài ba người bạn tri kỉ ông không cho ai chữ bao giờ”; nào là ông Huấn mắng thẳng kẻ đang biệt đãi  ông, cầm giữ sinh mạng ông là quản ngục: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vao đây nữa…”

Trước cái uy của Huấn Cao, quản ngục không chỉ kính nể mà còn khiếp hãi. Bị Huấn Cao xua đuổi, kẻ nắt trong tay quyền lực chốn lao từ chỉ khúm núm: “xin lĩnh ý”. Đó cũng là sự khuất phục của quyền lực trước cái đẹp khiến hình tượng Huấn Cao ngời sáng hơn. Cách tả người anh hùng của Nguyễn Tuân khác hẳn lối tả người anh hùng trong văn học cổ: tả trang hào kiệt mà không cần tới  “ râu hùm, hàm én, mày ngài” ( Truyện Kiều, Nguyễn Du) hay binh đao nảy lửa. Trái lại, người anh hùng lại bị đẩy vào thế hổ sa cơ. Đây cũng là chỗ độc đáo trong bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Tuân – tước bỏ những thước đo bên ngoài để miêu tả người anh hùng với những thước đo mới bên trong. Chất anh hùng của nhân vật được toát lên từ thái độ và con mắt đánh giá của người khác.

Nếu miêu tả Huấn Cao, Nguyễn Tuân chỉ dùng lại ở tài hoa  và khí phách, tức là chỉ dừng lại ở cái kiêu bạt và gai góc thì người đọc sẽ nể phục nhưng hưa chắc đã yêu quý nhân vật. Bức chân dung ông Huấn chỉ được  hoàn thiện khi nhà văn chấp bút đưa ra vẻ đẹp thứ ba: thiên lương trong sáng tạo thành thế liên hoàn giữa tài hoa – khí phách – thiên lương. Nhân vật tới lúc này mới trở thành biểu tượng của sự hoàn thiện, hoàn mỹ, mang đậm cảm hứng lãng mạn và màu sắc lí tưởng đặc trưng của Nguyễn Tuân. Trong thẳm sâu tâm hồn ông Huấn, cái đẹp gắn với cái thiện, cái thiện chính là cái đẹp ở phương diện nhân cách. Thế kỉ XX, con người từng tiên đoán và khao khát đạo đức học trở thành mĩ học của tương lai. Huấn Cao có thể coi là biểu tượng của tiên đoán ấy. Cái thiên lương lành vững trong lòng ông được thể hiện trước hết ở sự tự ý thức, trân trọng và giữ gìn cái tài của mình. Ông từng nói : “ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền lực mà ép mình viết câu đối bao giờ”.  Không chỉ biết trân trọng cái đẹp của mình, Huấn Cao còn có một tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, biết quý  cái dẹp trong tâm hồn người khác. Khi nhận ra cái thiện tâm của viên quản ngục,  ông Huấn nói một câu đầy a 6n hện: Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Ông Huấn là người không biết sợ tiền bạc, quye62nthe61 và thậm chí cả cái chết nhưng lại sợ phụ bạc một tấm lòng trong thiên hạ. Chỉ có những nhân cách lớn mới có cái sợ cao quý như thế. Cảm tấm lòng biết yêu quý cái đẹp của quản ngục, Huấn Cao đã không ngần ngại tặng chữ. Vậy nên mới có cảnh cho chữ trong tù mà tác giả gọi là “cảnh thượng xưa nay chưa từng có”.

Ở cảnh cho chữ này, vẻ đẹp của Huấn Cao được khắc họa nổi bất nhất, toàn diện nhất , sinh động nhất. Cảnh cho chữ diễn ra trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Không phải nơi thảo đường hay một chốn thư phòng với hương trầm thơm ngát mà là một phòng giam chật hẹp, ẩm ướt, hôi hám. Nổi bật trên cái  nền ấy là hình ảnh Huấn Cao với thư thế thật đẹp: một người tù, cổ đeo gông , chân vướng xiềng, đang tô đậm  nét chữ trên tấm lụa trắng tinh. Không gian như ngừng trôi và thời gian dường như ngưng đọng, thiêng liêng, trang trọng. Bên cạnh Huấn Cao là viên quản ngục và thầy thơ lại: “người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kiễm đánh dấu ô chữ”.Cái tâm của quản ngục đang điều khiển cái tài của Huấn Cao. Cái tài của Huấn Cao đang phụng sự cái tâm của quản ngục. Cái tâm và cái tài đang hòa vào nhau để sáng tạo ra cái đẹp.

Có lẽ xúc động nhất là lời khuyên của Huấn Cao như một di chúc thiêng liêng “Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở” ; “ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững…”. Đây là lời khuyên chân tình của con người đã nghiệm ra lẽ phải và chân lí ở đời. Trong lời khuyên ấy, ta nhận thấy vẻ đẹp của nhân cách. Cái đẹp có thể nảy sinh từ cái chết nhưng cài đẹp không bao giờ song hành cùng cái ác. Giữ lấy thiên lương cho lành vững cũng chính là  giữ  được cái thiện ở đời. Lời khuyên cùng những hoài bão tung hoành của đời Huấn Cao đã cảm hó được viên quản ngục: “Kẻ mê muội này xin báo lĩnh”. Nguyễn Tuân đã chọn được một chi tiết nghệ thuật hết sức độc đáo để phô diễn quyền uy của cái đẹp trong việc khuất phục quyền lực của cái ác, cái xấu. Cái vài của quản ngục trước Huấn Cao giống như cái bái lạy trước hoa mai của Cao Chu Thần thuở xưa: “ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” ( Một đời chỉ biết cúi đầu lạy hoa mai). Ta tin rằng sau khi nhận được những nét chữ cao quý của Huấn Cao, quản ngục sẽ sống khác đi để giữ mình luôn là “một thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn , xô bồ”. Với ý nghĩ như thế, cảnh cho chữ bỗng trở thành cảnh thụ giáo thiêng liêng mà hình tượng trung tâm là Huấn Cao – vị giáo chủ mang trong mình quyền uy của cái đẹp.

Nguyễn Tuân vốn nhìn đời trên hai thái cực: cái đẹp và cái ác. Cái đẹp thì cao cả, thánh thiện, cái ác thì tầm thường, phám tục. Đặc trưng cho cái đẹp là những con người rất mực tài hoa, khí phách và có thiên lương trong sáng như Huấn Cao. Hia2nh ảnh lồng lộng của ông Huấn Cao chính là biểu tượng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, là lời tụng ca bất tận cho cái đẹp vĩnh cửu của cuộc đời này. Huấn Cao không chỉ là một nghệ sĩ mà còn là một anh hùng chống bất công trong xã hội. Về mặt này, nhân vật trở thành một ẩn dụ kín đáo cho sự phẫn nộ của Nguyễn Tuân đối với xã hội đương thời. Do vậy, Chữ người tử tù còn nằm trong mạch nguồn yêu nước, cái dẹp gắn cái tâm làm nên sức sống bền lâu của ngòi bút Nguyễn Tuân.

Đề 2: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao ở đầu truyện và cuối truyện đối với viên quản ngục trong truyện ngắn “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân

Yêu cầu:

-Nội dung: Chú ý thái độ của nhân vật Huấn Cao, nhân xét và giải thích tại sao có sự thay đổi thái độ.

– Kiểu bài: Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự, tập trung vào sự chuyển biến tâm lí của nhân vật.

Dàn bài:

Mb:

-Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng của nền văn xuôi ViệtNamhiện đại. “Vang bóng một thời” là tập truyện ngắn đặc sắc của ông viết trước Cách mạng tháng Tám. Trong tập truyện đó người đọc bắt gặp hình ảnh về một nhà nho tài hoa, khí tiết. Nhà nho đó là Huấn Cao nhân vật chính trong “ Chữ người tử tù”. Sự chuyển biến về tâm lí của nhân vật là một trong những nết hấp dẫn và lí thú của thiên truyện.

Tb:

a)    Thái độ khinh bạc lúc đầu của Huấn Cao trước thiện ý của viên quản ngục

–          Thiện ý của viên quản ngục:

+ Cho người “dâng rượu với đồ nhắm”, đây là những thứ không dành cho tử tù.

+ Trực tiếp bày tỏ thiện ý với Huấn Cao.

+ Quản ngục…khép nép hỏi ông Huấn Cao

–          Đối với những người như ngài, phép nước ngặt lắm. Nhưng biết ngài là một người có nghĩa khí tôi muốn châm trước ít nhiều. Miễn là ngài giữ kín cho.

-> Quản ngục rất kính trọng người tù: “khé nép”, gọi người tù là”ngài” tức là người “có nghĩa khí” và nh7 muốn tâm sự. “Miễn là ngài giữ kín cho”. Khi ông Huấn từ chối, quản ngục”lễ phép” lui ra.

– Thái độ của Huấn Cao:

+ Lời chối từ ngắn gọn, dứt khoát và đầy miệt thị:

+ “Người hỏi ta muốn gì?…nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”

-> Ông Huấn Cao từ chối là hợp lí bởi ở nơi tu2ngu5c, người ta sống tàn nhẫn và lừa lọc, Huấn Cao không thể biết ngay được ý đồ của viên quản ngục, người đại diện cho quyền lực, mặt khác thái độ của quản ngục vẫn đáng ngờ. ( tâm sự, dặn dò giữ bí mật…)

-> Ông Huấn Cao từ chối còn bởi khí tiết và nhân cách của ông: không quỵ lụy, nhờ vả. Vì vậy thái độ của ông tỏ ra rất khinh bạc.

Trong tình cảnh này, ông Huấn Cao không thể lường trước được rằng viên quản ngục là một người có chữ nghĩa, trọng khí phách và rất say mê thư pháp (mà những điểm này không phù hợp chút nào với nghề nghiệp và khung cảnh sống của một quản ngục)

Viên quản ngục có lẽ cũng hiểu tâm trạng và thái độ của ông HUấn Cao nên không tỏ  ra bất bình, tự ái và đã trả lời rấ điềm tĩnh “xin lĩnh ý”.

b)    Ông Huấn Cao tặng chữ và khuyên bảo viên quản ngục:

+ Sự thay đổi thái độ bắt đầu từ chỗ ông Huấn Cao hiểu con người thật và tấm lòng của quản ngục.

+ “Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích coa quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mậ một tấm lòng trong thiên hạ”.

+ O6ng Huấn Cao đã viết tặng viên quản ngục những dòng chữ rất đẹp.

–          Đây là một sự kiện đặc biết bởi ông Huấn Cao chọn người mới cho chữ. Ông nói “đời ta cũng mới viết hai bô tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Vậy quản ngục có vinh dự là một trong số ít người được đối xử như bạn thân của ông Huấn.

–          Cảnh cho chữ thật cảm động: “ Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván:.

–          Ông Huấn Cao có thái độ và lời nói rất thân ái, tôn trọng: “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy”, lúc nào cũng gọi là “thầy quản”. Ông còn có những câu nói thân mật như với một người quen biết lâu ngày “thoi mực thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?”

–          Và nhất là ông Huấn Cao đã nói với viên quản ngục những lời tâm huyết có liên quan đến phẩm giá một đời người “thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở  đây khó giữ thiên lương cho lành vững”. Viên quản ngục nghẹn ngào, xúc động vái người tù một cái và nói “kẻ mê muội n ày xin bái lĩnh”. Đây không chỉ là hành động tạ ơn người cho mình chữ mà còn thể hiện thái độ bái phục một nha6nca1ch đẹp, một khí phách dũng liệt à một thiên lương trong sáng và cao cả.

-> Như vậy, thái độ của Huấn Cao đối vời viên quản ngục hoàn toàn khác trước vì ông đã hiểu rõ thầy quản , ông ân hận chút nữa đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Thái độ của ông chính là để đáp lại tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài” của viên quản ngục.

c) Đánh giá nhân vật:

– Huấn Cao là một con người tài hoa khác thường và ông cũng là một người có khí phách khác thường. Tuy nhiên, Huấn Cao không phải là con người có trái tim bằng thép. Đúng là tiền bạc và quyền thế không lung lạc được ông, nhưng khi hiểu được một tâm hồn trong sáng bị lạc vào giữa đám người “cặn bã”, ông đã trân trọng và sẵn sàng cho chữ, những dòng chữ cuối cùng của một đấng tài hoa và một bậc anh hùng nghĩa sĩ.

Kb:

–          Với thủ pháp đối lập, qua hai đạon đối thoại  Nguyễn Tuân đã vẽ nên một hình ảnh Huấn Cao:

+ Vừa cao ngạo, bất khuất, chọc trời khuấy nước.

+Vừa chân tình tài hoa, biết chân trọng những tấm lòng tốt trong thiên hạ, biết đề cao thiên lương đẹp đẽ của con người, biết yêu quý nghệ thuật.

Đề 3: Phân tích nhân vật quản ngục

– Chọn nhầm nghề . Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại co tính cách diu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay chẳng khác nào một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.

–  Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, quản ngục có lòng kiếng nể, lại có biệt nhỡn đối riêng vời Huấn Cao. Suốt nửa tháng trời,ngục quan bí mật sai viên thơ lại dâng rượu và đồ nhắm cho tử tù Huấn Cao và các đồng chí của ông.

– Lần thứ hai, y gặp mặt Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn bày tỏ muốn châm chước ít nhiều đối với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị mặng lời, gần như xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn xin lĩnh ý rồi lui ra

– Ngục quan là một nhà nho biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, suốt đời chỉ ao ước một điều là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao là một người chọc trời khuấy nước nhưng lại tự ti cái thứ mình chỉ là một kẻ tiều lại giữ tù. Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, không biết làm thế nào mà xin được chữ.Là quản ngục nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao  cách xa y nhiều quá?. Tử tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời. Bi kịch ấy cho thấy tính cách của quản ngục là con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở thích cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của quản ngục, Huấn Cao cảm động nói: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Như vậy, trong vị thế xã hội, quản ngục và tử tù là đối địch, còn trên lĩnh vực nghệ thuật, họ là tri âm. Huấn Cao đã tri ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là quản ngục.

– Trong cảnh cho chữ có một hình ảnh kì diệu: Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu rôi lên ba đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lẫn hồ. Ánh sáng bó đuốc ấy chính là ánh sáng của thiên lương  mà tử tù đang chiếu lên và lay tỉnh quản ngục. Chi tiết  ngục quan khúm núm cất những đồng tiền kẽm đán dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng, chi tiết ngục quan vái người tử tù một vái, nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào nói: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh là những chi tiết thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ, chiếu rọi tâm hồn. Một cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có.

– Có thể , sau khi Huấn Cao bị giải vai kinh thụ  hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo mũ, tìm về nhà quê mà ở để giữ lấy thiến lương cho làng vững và thực hiện cái sở  thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn Tuân đã xây  dựng nhân vật quản ngục bằng nhiều nét có thần. Ngoại hình thì đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Một con người ưa sống bằng nội tâm; cái đêm hôm trước đón nhận tử từ, ông sống trong trạng thái thanh thản, gương mặt ông ta là mặt nước hồ xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ. Trong một xã hôi phong kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân vật quản ngục đúng là một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm.

Đề4: Anh ( chị) hãy phân tích cảnh cho chữ trong tác phẩm “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân để chứng minh đó là “ cảnh xưa nay chưa từng thấy

 

 MB:

– Giới thiệu về Nguyễn Tuân và bút pháp “ tài hoa và uyên bác” yêu cái đẹp và say mê gây dựng cái đẹp

Chữ người tử tù nằm trong tập truyện “ Vang bóng một thời” – tập truyện viết về cái đẹp một đi không trở lại

– Cảnh cho chữ có thể coi là điểm nhấn cho toàn tác phẩm, vừa giúp Nguyễn Tuân gửi gắm tâm sự vừa giúp ông thể hiện ngòi bút tài hoa, uyên bác của mình.

TB:

Cảnh cho chữ – “ cảnh tượng xưa nay chưa từng có”:

Không gian – thời gian cho chữ:

+ Không gian: “ một buồng tối , chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột , phân gián.’

So sánh với không gian cho chữ truyền thống: Thường là nơi núi non, sông nước, phong cảnh hữu tình hoặc thư phòng thơm tho, sạch sẽ.

+ Thời gian: buổi đêm trong nh ngục. Nhà văn không miêu tả một buổi đêm đầy sao thi vị mà là một đêm vắng lặng lạ lùng

Người cho chữ – người xin chữ:

+ Người cho chữ: “ cổ đeo gông chân vướng xiềng”

So sánh với những bậc tao nhân mặc khách khi cho chữ. Người cho chữ thường ưng dung, thư thái thường rượu, thưởng trà khi điểm tô từng net chữ.

+ Kẻ xin chữ: Quản ngục

Sự đảo ngươc vị trí:

+ Về mặt xã hội: Quản ngục và thơ lại là những người nắm trong tay quyền sinh sát đối với tử tù; tử tù là kẻ phục tùng những người như quản ngục.

+ Kh i ch chữ: Viên quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm, thầy thơ lại tay run run bê chậu mực. Huấn Cao – một tử tù – khuyên quản ngục nên thay chốn ở vì đó không phải là nơi để treo tấm lụa bạch với những nét chữ vuông vắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một  đời người. Và để giữ thiên lương cho lành vững.

Quản ngục nói đầy cảm phục: “ Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

-> Như vậy, trong hoàn cảnh này, vị trí quyền lực đã hoàn toàn bị đảo ngược dưới ánh sáng của thiên lương.

Sự đối lập màu sắc:

+ Anh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu

+ Màu trắng thanh bạch của tấm lụa bạch còn nguyên lẫn hồ

+ Bóng tối bên ngoài nhà ngục

-> Sự đối lập mang màu sắc điện ảnh và hội họa này phần nào thể hiện sự chiến thắng của ánh sáng thiên lương.

Bức tranh chữ có sức mạch gắn kết những con người có tâm hồn cao quý và gìn giữ thiên lương của con người:

Đoạn trích “ Ở đây lẫn lộn…Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”

Bức lụa trắng trẻo, những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nói lên cái hoài bão tug hoành của một đời người, mùi mực thơm chỉ dành cho những người có thiên lương. Bức lụa ấy đã giúp viên quản ngục, thơ lại và Huấn Cao trở  thành tri kỉ, cũng đồng thời là động lực giúp quản ngục tìm đường thoát khỏi cái nghề

“ tiểu nhân thị oai” để xứng với thú chơi chữ. Khó có những con chữ nào có sức mạnh đến nhường ấy.

KB:

– Không gian, thời gian, con người…trong cảnh cho chữ này đều khác biệt so với truyền thống .

– Cảnh cho chữ, bức tranh chữ và những khuôn mặt trong khung cảnh ấy đều được soi sáng bởi ánh sáng của Cái Thiên Lương

 

CHÍ PHÈO

 

1.Nhan đề tác phẩm
– Đầu tiên, Nam Cao đặt nhan đề : Cái lò gạch cũ. Sau đó – năm 1941- NXB tự ý đổi tên thành Đôi lứa xứng đôi. Năm 1946, khi in lại trong tập Luống cày, Nam Cao đã đặt lại tên là Chí Phèo – Ý nghĩa của nhan đề: Chí Phèo, vẽ nên một con người cụ thể, một số phận cụ thể, cô đơn, cô độc…
2. Hình tượng nhân vật Chí Phèo
a, Sự xuất hiện của hình tượng Chí Phèo
• Mở đầu truyện là một Chí Phèo say rượu và chửi bới:
+ “Hắn vừa đi vừa chửi”
+ Hắn chửi tất cả : từ trời, đời ,cả làng Vũ Đại , “Chửii cha đứa nào không chửi nhau với hắn” “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn”=> đối tượng chửi đã được xác định : xã hội thực dân nửa phong kiến đã sinh ra cái thằng Chí Phèo, đối tượng chửi qua đó cũng thu hẹp dần > chứng tỏ Chí đang rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc.

• Cái mà Chí nhận được là : “ trời có của riêng nhà nào”,“đời là tất cả nhưng chẳng là ai” , “không ai lên tiếng cả” ,“không ai ra điều” , “nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo”. Đáp lại tiếng chửi ấy trớ trêu thay lại là “ tiếng chó cắn lao xao”.
• Ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo:
+ Chí chửi tức là Chí muốn giao tiếp với mọi người nhưng tất cả đều im  Chí đã bị đánh bât ra khỏi¦lặng, chỉ có “ba con chó dữ với một thằng say rượu”) xã hội loài người, tiếng chửi trở nên vật vã, tuyệt vọng.
+ Tiếng chửi của Chí là tiếng nói đau thương của một con người ý thức về bi kịch của mình: sống giữa cuộc đời nhưng đã mất quyền làm người. Đó chính là sự đau xót của nhà văn đối với nhân vật của mình.
b. Sự ra đời và quá trình tha hoá của Chí Phèo.
• Khi mới sinh ra Chí bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ, được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ bất hạnh, tủi cực “ hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”
• Chí là một nông dân hiền lành, lương thiện:
+ Bà ba sai bóp đùi, hắn: “vừa làm vừa run” “ thấy nhục chứ yêu đương gì”
+ Chí là một con người có lòng tự trọng: khi bị bà ba sai bóp chân, Chí “thấy nhục hơn là thích” trước một việc làm mà Chí cho là “không chính đáng”.
+ Có ước mơ giản dị: “ có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”
• Xã hội thực dân nửa phong kiến không để yên cho con người tội nghiệp ấy được sống với những ước mơ và khát vọng, Bá Kiến ngấm ngầm đẩy Chí vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già Bá Kiến biến Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành lương thiện thành một kẻ lưu manh, côn đồ khét tiếng . Sau 7, 8 năm tù ra, Chí đã bị cái xã hội ấy vằm nát cả nhân hình lẫn nhân tính, trở thành một kẻ lưu manh, một con quỷ dữ.
+ Nhân hình: Bị xã hội lưu manh vằm nát bộ mặt người.
•Gương mặt: “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”
•Trang phục: “mặc quần nái đen với cái áo tây vàng”
•Thân thể: “cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”.
+ Nhân tính: Hành động và lời nói thể hiện tính cách của một kẻ liều lĩnh, hung hăng:
• “Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều…Rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tận tên tục ra mà chửi”. Chí bộc lộ tính lưu manh cùng đường: “đập cái chai vào cột cổng”, lăn lộn dưới đất…cào vào mặt”
• Nói với Bá Kiến: “Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi”. Trong câu nói ấy của Chí chất chứa hận thù. Chí vẫn đang còn tỉnh táo để nhận ra kẻ thù của mình. Đó là ý thức hệ của tầng lớp bị thống trị đối với giai cấp thống trị. Thế nhưng trước một Bá Kiến cáo già với châm ngôn sống “ Thứ nhất sợ kẻ anh hùng/ Thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”. Chí phèo đã sa vào bẫy của tên cáo già ấymột cách thật dễ dàng. Để rồi sau đó hắn trở thành tay sai của BK, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người  “con quỷ dữ của’nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh  làng Vũ Đại”. Từ đây chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say “ ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “ những cơn say của hắn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”.

Giữa lúc Chí đang rơi vào ngõ thẳm đêm đen của tội lỗi thì Nam Cao bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã xuất hiện đúng lúc. Ông mang đến cho Chí một “thiên sứ” – Thị Nở với hi vọng cữu vãn linh hồn Chí Phèo.
c. Chí Phèo gặp Thị Nở
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở trong một đêm trăng bên bờ suối đã thức tỉnh phần người của Chí giúp hắn trở về kiếp người. Sự quan tâm, chăm sóc của Thị Nở đã giúp Chí cởi bỏ phần “quỷ” để sống lại làm người, khát khao hoàn lương, làm người lương thiện.
– Diễn biến tâm lí, tình cảm của Chí Phèo
+ Từ tỉnh rượu đến tỉnh ngộ
Tỉnh rượu: lần đầu tiên – từ khi mãn hạn tù – Chí hết say và cảm nhận được thời gian và âm thanh hằng ngày của cuộc sống. Âm thanh cuộc sống đang từng tiếng một gõ nhịp vận hành cùng với sự thức tỉnh của Chí Phèo. * “Ở đây (căn lều) người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng” * “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Tiếng mấy bà đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông” . Những âm thanh này ngày nào mà chẳng có, nhưng đây lại là lần đầu tiên chí mới nhận ra: chao ôi là buồn!
• Tỉnh ngộ : nhận thức và nhìn lại cuộc đời mình trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai * Qúa khứ :“Hắn nao nao buồn” nhớ về một thời hắn đã từng ước mơ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn,…” * Hiện tại: “Hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn “đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “cơ thể đã hư hỏng nhiều” * Tương lai: đáng buồn và lo sợ vì nghĩ đến nhiều điều bất hạnh: “tuổi già”, “đói rét và ốm đau, và cô độc”. Tỉnh ngộ, Chí muốn khóc… Chí Phèo đang thức tỉnh và bắt đầu hồi sinh về kiếp người.
+ Khát khao hoàn lương và mong ước hạnh phúc
• Chí ngạc nhiên và xúc động “mắt hình như ươn ướt” khi Thị Nở mang “một nồi cháo hành còn nóng nguyên” vì đây là lần đầu tiên “hắn được một người đàn bà cho”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Chí lại nghĩ đến con mụ Bà Ba và lấy làm kinh tởm vì những trò dâm đãng “nó chỉ mong cho thỏa nó chứ yêu đương gì”.
• Chí “ăn năn”, “thấy lòng thành trẻ con” và “muốn làm nũng với thị như với mẹ” khi được Thị Nở chăm sóc bằng tình cảm thương yêu.
• Chí trở nên hiền lành đến khó tin: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó vẫn là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt đâm chém người?”, “cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi” đã trỗi dậy mạnh mẽ, Chí sống đúng với con người thật của mình, giống như anh canh điền hiền lành trước đây.
• Chí mong muốn trở lại làm người lương thiện: “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao !… Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”
• Chí khát khao hạnh phúc và có một mái ấm gia đình: “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”, “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.”  giống như lời cầu hôn chất phác, giản dị. Qua miêu tả tâm lí hồi sinh của nhân¦ vật Chí Phèo, Nam Cao cho cho ta thấy được bản tính tốt của con người có ngay trong con người bị tha hoá. Bản tính ấy sẽ trỗi dậy khi có chất xúc tác. Đó là sự thương yêu, quan tâm. Từ đó nhà văn kêu gọi chúng ta cần tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp của mỗi con người và cần giúp đỡ họ tìm lại những cái tốt đẹp nhất của phần “người” * Bài học nhân sinh: Con người cần phải quan tâm , chia sẻ tình thương giữa người với người. Tình thương có khả năng cảm hoá được con người.
d. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
– Nguyên  cả làng Vũ Đại, cả’nhân : Thị Nở đã cắt đứt với Chí Phèovì bị bà cô cấm đoán  xã hội ko ai đón nhận linh hồn người vừa trở về của Chí. Định kiến của bà cô cũng là định kiến của cả xã hội đương thời. – Chí đau đớn và tuyệt vọng:
+ Uống rượu cho thật say nhưng “càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn!”
+ “Hắn ôm mặt khóc rưng rức” càng thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. – Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đam chết con “khọm già”, con “đĩ nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của CP dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là BK.
+ Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu trong con người của Chí càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyến làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. – Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:
+ “ Tao muốn làm người lương thiện”
+ “ Ai cho tao lương thiện?” Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân.
• Chí giết Bá Kiến và tự sát. Cái chết của Chí Phèo là bản án tố cáo xã hội thực dân nửa phong , một cuộc sống mà trong đó, con người muốn sống lương thiện cũng không được.
3. Tổng kết Nghệ thuật:
– Xây dựng và điển hình hoá nhân vật.
– Miêu tả , phân tích tâm lí nhân vật.
– Trần thuật. – Ngôn ngữ sống động, gắn với lời ăn tiếng nói hằng ngày.
– Giọng điệu phong phú, có sự đan xen lẫn nhau.
– Cốt truyện hấp dẫn, kịch tính và đầy bất ngờ.
– Kết cấu truyện độc đáo.

 

Đề1. Phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo (truyện ngắn: “Chí Phèo” của Nam Cao) từ buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời để làm nổi rõ bi kịch của nhân vật này. ( quá trình thức tỉnh)

Hướng dẫn làm bài

1. Khái quát tác giả, tác phẩm và bi kịch nhân vật

a. Nam Cao (1915 – 1951) là nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, vừa mới mẻ, độc đáo. Sáng tác của ông trước Cách mạng xoay quanh hai đề tài chính là trí thức tiểu tư sản và người nông dân cùng khổ. Điều làm ông day dứt đến đau đớn là tình trạng nhân cách con người bị hủy hoại.

Là nhà văn có biệt tài phân tích tâm lí, Nam Cao đã khám phá ra những diễn biến nội tâm nhân vật vừa tất yếu, vừa bất ngờ rất thú vị.

Qua việc tìm hiểu diễn biến tâm trạng Chí Phèo từ buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.

b. “Chí Phèo” là kiệt tác của Nam Cao về đề tài người nông dân và là kết tinh khá đầy đủ cho tài năng của Nam Cao. Tác phẩm đi sâu vào tấn bi kịch tinh thần của nhân vật chính Chí Phèo.

Bi kịch của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau.

Thứ nhất, bi kịch bị tha hóa, đầy đọa lăng nhục, từ một con người nông dân lương thiện bị xã hội biến thành một kẻ bất lương, thậm chí thành “con quỷ dữ”. ( giá trị hiện thực  – mơi mẻ, độc đáo vì phản ánh hiện thực nỗi thống khổ của người nông dân trong xa hôi phong kiến nửa thực dân ở khía cạnh tinh thần)

Bi kịch thứ hai là bị từ chối quyền làm người( giá trị nhân đạo sâu sắc – phát hiện giá trị đẹp trong phẩm chất người nông dân khi đã bị xã hội áp bức tha hóa thành lưu manh, thành quỷ dữ)

Đoạn mô tả Chí Phèo từ buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời thuộc bi kịch thứ hai.

2. Phân tích cụ thể diễn biến tâm trạng Chí Phèo.

a. Trước hết là sự thức tỉnh. Bắt đầu là tỉnh rượu.

“Sau những cơn say vô tận”, “bây giờ thì hắn tỉnh” sau đêm gặp Thị Nở, Chí Phèo đã sống lại những cảm xúc đầy nhân tính. Hắn cảm nhận được không gian xung quanh với “cái lều ẩm thấp mới chỉ lờ mờ”. Đặc biệt hắn đã cảm nhận được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống quanh mình: “Tiếng cười nói của những người đi chợ; tiếng gõ mái chèo đuổi cá, tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!”.

Những âm thanh bình dị ấy ngày nào chả có, nhưng xưa nay, vì say hắn bị xã hội làm cho “mù điếc cả tâm hồn”, không nghe được. Giờ đây được Thị Nở làm cho tâm hồn hắn sáng tỏ, thì những âm thanh ấy bỗng vọng sâu vào trái tim hắn như tiếng gọi tha thiết của sự sống.

Cùng với sự cảm nhận bức tranh cuộc sống xung quanh, Chí Phèo cũng đã cảm nhận được một cách thấm thía về tình trạng thê thảm của bản thân mình (già nua, cô độc, trắng tay).

Đoạn đối thoại của hai người đàn bà đã gợi nhắc cho hắn mơ ước về một gia đình hạnh phúc, bình dị. Nhưng giờ đây, Chí chỉ thấy một thực tại buồn bã, cô đơn: “Chí Phèo dường như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc, điều này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”.

b. Sau khi tỉnh rượu, Chí Phèo tỉnh ngộ và hi vọng. Chí Phèo ăn bát cháo hành được trao từ bàn tay ấm nóng đầy tình thương của Thị Nở, hắn vô cùng cảm động và thực sự phục sinh tâm hồn. Hắn “rất ngạc nhiên”, “mắt hắn hình như ươn ướt”, bởi vì “đây là lần thứ nhất hán được người ta cho cái gì”.

Hắn nhận ra “Trời ơi, chào mới thơm làm sao!”. Hương vị của bát chào hành hay hương vị của tình yêu chân thành và cảm động, hạnh phúc giản dị và thấm thía lần đầut tiên Chí Phèo được hưởng đã đánh thức nhân tính vùi dập bấy lâu?

“Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”, mọi người sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện. Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi. Chúng nhất định sẽ lấy nhau. Câu trả lời của Thị Nở lúc này sẽ quyết định số phận của Chí: được kết nạp lại xã hội loài người hay vĩnh viễn bị đày đọa trong kiếp sống thú vật?

Chí Phèo hồi hộp hi vọng. Nhưng cánh của hi vọng vừa hé mở thì đã bị đóng sầm ngay lại. Vì bà cô không cho Thị Nở “đâm đầu” đi lấy “thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”.

Chí Phèo nghĩ ngợi một lát rồi bỗng nhiên “ngẩn người”. Hắn “sửng sốt”. Hắn lôi rượu ra uống. “Nhưng càng uống càng tỉnh ra! Chao ôi! Buồn”. Hắn cứ thoảng lấy hơi cháo hành – hơi của tình yêu hạnh phúc đang sắp tuột khỏi bàn tay cố níu kéo của Chí và “ôm mặt khóc rưng rức”. Đây chính là đỉnh điểm của bi kịch tinh thần trong Chí Phèo.

c. Quằn quại trong đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo lại xách dao ra đi. Nhưng hắn không rẽ vào nhà Thị Nở như đã dự định ban đầu (đến đâm chết con đĩ Nở và con khọm già kia) mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong cơn say, hắn càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi hình người và hồn người của hắn. Chí Phèo đã vung lưỡi dao căm thù lên giết chết Bá Kiến và quay lại tự kết liễu cuộc đời. Chí Phèo chết vì không tìm ra lối thoát, vì xã hội không cho hắn sống.

Gấp trang sách “Chí Phèo” lại, ta vẫn nghe văng vẳng đâu đây câu hỏi găy gắt đến tuyệt vọng của Chí: “Ai cho tao lương thiện?”. Đó là “Một câu hỏi lớn. Không lời đáp” còn làm day dứt hàng triệu trái tim người đọc: Làm thế nào để được sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo vùi dập nhân tính ấy? Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này.

Tác phẩm kết thúc, Chí Phèo Chết. Nhưng dường như hiện tượng Chí Phèo – hiện tượng hàng vạn người nông dân lương thiện bị xã hội đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa và khi ý thức nhân phẩm trở về thì bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt vẫn chưa chấm dứt. Chi tiết cái lò gạch bỏ không, vắng người qua lại hiện ra ở cuối tác phẩm khi Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng, bỗng tưởng tượng ra hình ảnh này đã nói với ta điều gì đó.

Kết luận

Quá trình diễn biến tâm trạng nói trên của Chí Phèo đã làm nổi rõ bi kịch: “Sinh ra là người mà không được làm người”. Qua đó, Nam Cao đã bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của hiện thực xã hội bấy giờ.

 

Đề 2: Chí Phèo – Nhân vật điển hình

Bài tham khảo:

   

Nếu Truyện Kiều của Nguyễn Du để lại cho đời những ấn tượng và định nghĩa về những kẻ Sở Khanh đểu giả, những mụ Tú Bà buôn thịt bán người, những Hoạn Thư ghen tuông đáng sợ…thì Chí Phèo của Nam Cao cũng đã có một anh Chí- nhân vật điển hình – đi vào đời sống tự lúc nào.
Chí Phèo là nhân vật chính trong tác phẩm cùng tên được nhà văn Nam Cao viết về người thật việc thật ở làng Đại Hoàng, quê hương của tác giả, kết hợp với các hư cấu nghệ thuật để tạo nên nhân vật mang nhiều nét đặc sắc và ý nghĩa khái quát cao.
là nhân vật phải mang được những nét chung, đặc trưng, khái quát nhất của thời đại nhân vật ấy sống nhưng đồng thời cũng phải mang những đặc điểm tính cách, ngoại hình, suy nghĩ chân thực nhất, riêng nhất không thể trộn lẫn với bất cứ ai để ghi lại dấu ấn riêng của mình trong mọi thời đại.
Chí Phèo đại diện cho những nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường cùng bởi bọn cường hào địa chủ như bao người nông dân thời ấy, nhà nghèo phải đi ở cho nhà này đến nhà khác kiếm bát cơm ăn. Chí khác là Chí vốn xuất thân là đứa trẻ bị bỏ rơi, hắn có một cuộc đời mang con số không tròn chĩnh từ lúc mới lọt lòng: không cha, không mẹ, không ai chờ đợi hắn ra đời, chỉ có cái lò gạch hoang không người chờ hắn mà thôi. Hắn được quấn trong một chiếc váy đụp rồi bỏ trong lò gạch, một người nông dân nghèo khổ nhặt hắn về nuôi, khi bác phó cối chết thì Chí lại bơ vơ. Năm mười tám tuổi, số phận đưa đưa đẩy Chí tới nhà Bá Kiến, một kẻ điển hình cho sự tàn bạo xấu xa của bọn cường hào địa chủ. Cuộc đời Chí cứ không may nối tiếp không may vì Bá Kiến là một tên cường hào cáo già có bản chất gian hùng. Hắn có “ giọng quát rất sang và cái cười ấy luôn luôn che đậy bản chất nham hiểm xảo quyệt của một tên cường hào đã già đời trong nghề bóc lột”. Tất cả những suy nghĩ tính toán của hắn đã bị Nam Cao bóc trần qua những độc thoại nội tâm. Bá Kiến đi lên từ chức lý tổng rồi đến chánh tổng, bá hộ làng Vũ Đại, chánh hội đồng kỳ hào huyện Hào, bắc kỳ nhân dân Đại biểu “khét tiếng hàng huyện” bóc lột dân chúng đã thành nghề. Qua mấy đời làm quan bá Kiến đã đúc kết được bao kinh nghiệm rồi nâng lên thành phương sách, nội dung truyền dạy cho con cháu. Theo hắn, nghệ thuật trị người là “ mềm nắn rắn vuông” “nắm thằng có tóc không nắm thằng trọc đầu” “ dùng độc trị độc: hay” “ đầu bò trị đầu bò”. Trong “ nghề bóc lột” hắn còn đúc kết ra kinh nghiệm “ đè nén con em đến nỗi nó không chịu được phải bỏ làng đi là dại, mười thằng thì chín thằng trở về với cái vẻ hung dữ và tính cách ương ngạnh học được ở phương xa”. Cho nên một người khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng “ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông rồi lại vứt trả 5 hào vì thương anh túng quá”. Bởi vì hắn quá nham hiểm nên Chí Phèo tưởng đến cửa nhà giàu kiếm được miếng cơm manh áo nào ngờ lại gặp phải địa ngục trần gian. Bởi vì cái con vợ ba “ quỷ cái” của bá Kiến cứ bắt bóp chân và khêu gợi những chuyện dâm dật. Hắn vùng vằng không thích nhưng bá Kiến thì chẳng buông tha. Con cáo già dâm đãng lại có máu ghen tuông thảm hại đã tìm cớ để tống Chí vào tù, vào tù cũng có nghĩa là trượt dài trên dốc của cuộc đời để rồi vào lưu manh tội lỗi. Vậy là một Chí Phèo “ hiền như cục đất”, một kẻ trẻ tuổi nghèo khó nhưng biết phân biệt đúng sai, trong sáng lương thiện và dâm dục xấu xa, giàu tự trọng đã buộc phải đặt chân vào ngưỡng cửa những kẻ lưu manh tha hóa. Đó cũng là tình cảnh chung của rất nhiều người nông dân lúc bấy giờ.
Sau bảy tám năm ở tù về Chí thành một con quỷ dữ đáng sợ “ cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà rất cơng cơng, đôi mắt gờm gờm trông gớm chết”, “trên người hắn săm đầy những hình thù quái dị” làm mất luôn bản chất hiền lành năm xưa. Bây giờ hắn là kẻ ác, chỉ biết làm làm việc ác. Chí bây giờ là kẻ nối bước Binh Chức, Năm Thọ ngày trước; tất cả như một quy luật nghiệt ngã tồn tại trong xã hội ngày ấy, số phận của những người nông dân lam lũ làm việc bán rẻ sức lao động của mình chưa đủ mà còn phải bán cả linh hồn. Chí Phèo trở về tuy là bậc đàn em nhưng có phần hơn cả thế hệ đàn anh đi trước và để lại dấu ấn mạnh mẽ ngay từ nét ngoại hình du côn hung hãn chẳng giống ai mà đặc biết là một khuôn mặt đầy sẹo dọc ngang đến nỗi tưởng chừng không còn chỗ nào để có thể thên sẹo được nữa, kết quả chiến công cho việc làm tay sai cho bá Kiến chuyên đi rạch mặt ăn vạ những người bà con hiền lành vô tội. Chí bây giờ không thể lẫn với ai bởi thói quen “ vừa đi vừa chửi” mà hắn chửi mới lạ lùng và ngao ngoắt làm sao. “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn, chửi cả đứa chết mẹ nào đẻ ra hắn” để đời hắn giờ khốn nạn thế này. Người ta chửi có đối tượng cụ thể cón hắn chửi vu vơ, chửi tất cả nhưng “ ai cũng nghĩ chắc hắn trừ mình ra nên chẳng ai thèm lên tiếng cả”; và thế là Chí cứ chửi, chửi để thấy rằng thật xót xa cho đời Chí khi tất cả những gì quanh hắn đều đá nguyền rủa. Nam Cao để cho nhân vật của mình giải tỏa những bức xúc nội tại theo một cách bình dị tới mức không ai ngờ tới, vì người ta vẫn làm thế nhưng khi Chí thể hiện theo cách của riêng hắn bạn đọc vẫn ngớ người ra. Người ta thấy mình trong Chí nhưng Chí lại không thể lại lẫn với bất cứ ai với cái vẻ bất cần đời lên đến đỉn điểm. Đó chính là tài năng của Nam Cao trong việc xây dựng nên một nhân vật Chí Phèo điển hình.
Cũng mang tâm lý như những người nông dân thời đó hay cũng chính tâm lý của chúng ta bây giờ: luôn khát khao vươn tới sự hoàn lương, lương thiện, Chí cũng vậy. Sau khi ở tù về một ngày Chí ra chợ uống rượu với thịt chó rối say khướt. Hắn vác dao đến nhà bá Kiến réo tên tục ra mà chửi rồi đòi nợ năm xưa, cái món nợ mà có lẽ cả đời bá Kiến cũng không trả nổi cho Chí và cũng là món nợ hắn chịu của nhiều người. Chí tìm lại lương thiện. Sau khi tới đó bị lý Cường đánh Chí cào mảnh chai vào mặt rồi lăn lộn kêu “ối làng nước ôi cứu tôi với, bố con thằng bá Kiến nó đâm chết tôi, thằng lý Cường nó đâm chết tôi rồi”. Nhưng rồi với hiểu biết hạn hẹp và nông cạn của một người nông dân bần cùng, Chí cũng chẳng thể thắng nổi lão Bá Kiến, con cáo già thừa sự khôn ngoan. Hắn vừa mới về thoáng nhìn qua đã biết ngay cơ sự. Hắn quay sang quát ngay con mình rối quay sang ngọt ngào với dân làng – những người đổ ra xem và cổ động cho Chí “ các ông các bà nữa về đi thôi chứ, có gì mà năn lại như thế ấy”. Khi mọi người đã về hết chỉ còn lại mình Chí Phèo cụ Bá mới vỗ về “ Anh Chí đấy à, về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước đã…nào cứ đứng lên vào đây uống nước đã…ai chứ anh với thằng lý Cường còn có họ với nhau kia đấy”. Con cáo già bá Kiến đã không ngoan cho Chí Phèo vào bẫy bởi những lời ngọt nhạt, hắn đã đánh quá đúng vào tâm lý của những người nghèo hèn khốn khổ: mong một ngày được mở mặt mở mày nay tự dưng lại trở thành “ có họ” với người sang thế này. Và thế là chỉ vài ba câu chuyện Chí đã khúm núm một “ bẩm cụ” hai “bẩm cụ” nhất nhất tuân thủ Bá Kiến.
Khát khao trở về lương thiện vẫn còn nhen nhóm, lần thứ hai Chí đến nhà bá Kiến, miệng thì nói xin đi ở tù nhưng thực tình là sinh sự kiếm tiền. Nhưng nào ngờ khát khao lương thiện đã bị lợi dụng và bị tạm thời che đi bởi một tay Bá Kiến. Chí từ đó trở thánh công cụ “ đốt nhà, đâm chém” “tác oai tac quái cho bao nhiêu gia đình, phá vỡ bao nhiêu hạnh phúc”. Chí trở nên xa lạ với đồng loại.
Nổi loạn là vậy nhưng nếu thiếu đi sự đề cập đến “ tình yêu của Chí và Thị Nở” thì sẽ là một Chí Phèo chưa hoàn chỉnh và ấn tượng tới hôm nay. Chí gặp Thị Nở và cuộc đời đã rẽ sang một lối khác. Thị là ánh trăng mát lành của cái đêm tình cờ ấy mang đến cho Chí khao khát yêu thương. Tình yêu giữa hai mảnh đời chắp vá gặp nhau đã thức dậy bản chất lương thiện vốn có và sự tự ý thức về mình của Chí. Chí sống lại với mong ước có một gia đình nhỏ “ chồng cày thuê cuốc mướn vợ dệt vải quanh năm” “ hai đứa bỏ vốn nuôi chung con lợn” . Sau bao năm tháng , hôm nay Chí lại nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay
“ tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: hôm nay vải mấy xu hả dì?” những âm thanh ấy hôm nào cũng có nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành của Thị Nở đem đến cho Chí Phèo làm Chí cảm động “mắt ươn ướt” và “hắn cười thật hiền”. Và hắn muốn hướng về tương lai bình dị như hắn mơ ước. Hắn nói với Thị Nở “ cứ thế này mãi thì thích nhỉ, hay là mình sang ở với tớ môt nhà cho vui”. Lần đầu tiên trong đời hắn nói ra những lời như thế với một phụ nữ, đó là gì ư? Đó chính là “ lời tỏ tình của Chí”, thực sự đó là một lời tỏ tình mang bản sắc của Chí mà thôi: không thể là “anh”, “em”, “chàng” “nàng” trong xưng hô vì ở Chí ngay từ đầu luôn thống nhất là một sự mộc mạc, chân thành, một anh anh nông dân ít học chính hiệu, một kẻ đã bị làm cho trở nên thô ráp bởi nhà tù và những cuộc ăn vạ, đốt nhà, đòi nợ…Cũng khó có thể tìm được một lời cầu hôn thứ hai nào trong văn học Việt Nam giống thế bởi ở đó có sự thẹn thùng, ngượng ngập và vụng về nhưng hết sức chân thành của một nhận vật đã tạo được dấu ấn riêng ngay từ vẻ ngoại hình đến những câu chửi thề như Chí Phèo. Mọi thứ sẽ tốt đẹp nếu như Thị đồng ý tấm chân tình của hắn, đáng tiếc người đàn bà dở hơi ấy đã từ chối bởi bà cô của Thị không cho phép cháu gái lấy một thằng “ chỉ có mỗi một cái nghề là rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà, đó cũng là cách nhìn của những người trong xã hội với Chí. Tất cả đều coi hắn là quỷ dữ, không ai còn tin hắn, hắn bị xã hội cự tuyệt. Chí “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vài bi kịch tuyệt vọng muốn làm người lắm mà không ai công nhận . Thế là hắn tìm đế rượu “ hắn càng uống càng tỉnh”hắng cứ uống cho đến lúc say mềm lại vừa vác dao vừa đi vừa chửi. Mồm thì chửi bà cô thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà Bá Kiến. Hắn đến nhà bá Kiến để xin làm người lương thiện”. Xã hội ấy có tàn bạo đế đâu cũng không thể hủy hoại được ánh sáng nhân phẩm trong con người cơ cực. Chính kẻ gieo nhân xấu sẽ phải gặt quả báo. Thấm thía tình trạng tuyệt vọng của mình và con đường trở về lương thiện là không thể Chí đã lao vào đâm chết bá Kiến và cùng tự kết thúc đời mình. Cái chết của bá Kiến là khẳng định cho: “nợ máu phải trả bằng máu”. Cái chết của Chí Phèo đã thể hiện ý tưởng sâu xa nhằm góp phần tạo nên giá trị hiện thức của tác phẩm. Chí Phèo chết là bản án tố cáo xã hội đương thời, một xã hội phi nhân tính đã tước bỏ quyền sống, quyền làm người của những người dân lương thiện. Chí Phèo chết cũng là Chí cũng như bao người nông dân khác thà chết chứ không chịu quay lại con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống của loài cầm thú chuyên làm điều ác, thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người
Bi kịch cuộc đời của Chí Phèo cũng mang những nguyên nhân cơ bản của sự khổ đau trong cuộc đời những nông dân ấy. Chính xã hội phong kiến là nguyên nhân khách quan để cho bọn cường hào địa chủ lộng quyền bóc lột tới xương tủy người nông dân và cướp đoạt cả sự lương thiện trong tâm hồn họ mà dại biểu trong bi kịch của Chí Phèo là bá Kiến.Thêm vào đó là nguyên nhân chủ quan từ những thành kiến của những người như bà cô thị Nở. Những người lao động như Chí có thể bị đè nén nhưng sẽ đến lúc họ quay lại chống trả và cũng không dễ dàng gì mua chuộc, lợi dụng.
Chí Phèo được xây dựng điển hình bằng bút pháp hiện thực với những nét ngoại hình rất riêng từ cài đầu trọc lốc” đến “hàm răng trắng hớn”, “đôi mắt gờm gờm” đến khuôn mặt đầy vết sẹo dọc ngang. Sự cá tính nằm trong cả hành động và ngôn ngữ: “hắn vừa đi vừa chửi:, “uống rượu xong là hắn chửi”. “hắn chửi đời, chửi trời, chửi cả cái đứa chết mẹ nào đẻ ra hắn”, cả một thế giới ngôn từ thô nháp ngay đến cả khi bày thỏ những lời yêu thương.
Hình tượng Chí Phèo đã được khắc họa thành công và khái quát, mang tính điển hình cao, nó chỉ ra bản chất của xã hội sẽ còn có những Chí Phèo bi kịch của Chí Phèo, phải tiêu diệt xã hội ấy đi và đây chính là chiều sâu ngòi bút của Nam Cao khi miêu tả hiện thực xã hội.

 


 

 

Đề 3. Phân tích qua trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo (Gía trị hiện thực và nhân đạo)

Yêu cầu:

Cần phân tích quá trình ta hóa của nhân vật Chí phèo : từ một cố nông lương thiện, từng bước thay đổi trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại

– Kiểu bài: Phân tích diễn biến về tư tưởng, tâm lí của nhân vật trong tác phẩm.

Dàn ý:

MB:

– Tác phẩm “ Chí Phèo” là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân và là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước Cách mạng.

– Qua hình tượng Chí Phèo, một hình tượng nông dân bị tha hóa, Nam Cao đã miêu tả sâu sắc, cảm động cuộc sống đọa đày đau khổ  của người nông dân bị đè nén, bóc lột đến cùng cực, bị xã hội vùi dập đến mất cả nhân hình conngu7o7i2, tình người.

TB:

a)      Chí xuất thân là con một cố nông: nghèo khổ, vất vả nhưng lương thiện:

+ Chí ra đời trong một “cái lò gạch cũ” bỏ hoang, không cha, không mẹ, không họ hàng thân thích.

+ Tuổi thơ của Chí cực khổ: “bơ vơ, hết đi ở cho nhà này, lại đi ở cho nhà khác”. Đến tuổi thanh niên “làm canh điền cho nhà lí Kiến”.

+ Anh là người lương thiện: Bá Kiến nhận xét về Chí “ lại mo54t thằng hiền lành như đất – tội nghiệp cho hắn”. Chí từng giữ phẩm chất: “người ta không thích cái gì người ta khinh”.

+ Chí từng ao ước có một gia đình nho nhỏ. Cồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…”. Bọn chức sắc cường hào đã bóc lột, hà hiếp Chí, Chí Làm canh điền cho nhà Bá Kiến, bị bà Ba sai làm những việc không chính đáng.

b)      Nhà tù thực dân đã lưu manh hóa Chí Phèo

+ Việc Chí pHèo đi tù có bàn tay của Bá Kiến. Vì ghen tông vu vơ, Bá Kiến đã giải Chí lên huyện, rồi sau đó  anh phải ngồi tù. Và  Chí “ đi biệt tích bảy tám năm”.

+ Chí Phèo trở về làng với hình dáng khác hẳn ( tên Phèo có têm từ đấy): “ Trông  đặc như thằng sắng cá. Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen và rất co7ng  co7ng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trỗ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai  cánh tay cũng thế. Trông gớm chết”. Như vậy lúc trở về làng Chí Phèo đã trở thành một tay anh chị. Chí Phèo đã không còn phẩm chất  tốt đẹp của anh canh điền trước kia. Bản chất lương thiện, trong trắng của Chí Phèo đa bị hủy diệt. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay cho tên cường hào ác bá Bá Kiến bắt giam môt anh Chí lương thiện, vô tội để rồi thả ra một chí phèo hung ác, lưu manh.

c)      Trở về làng,  Chí Phèo bị bọn cường hào ác bá biến thành “con quỷ dữ” dẫn đến bi kịch không lối thoát khi Chí muốn hoàn lương.

– Chí Phèo vẫn mangna85ng mối thù với Bá Kiến, nhưng là một kẻ đầy kinh nghiệm trong việc thống trị nông dân, Bá Kiến đã biến kẻ thù thành tay sai đặc lực: và từ đó “hằn phá bao nhiêu co7nghie65p, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu nước mắt và máu của bao người lương thiện”

– Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người, Chí trở thành “con quỳ dữ của làng Vũ Đại”. Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua. Sau này khi Chí phèo muốn trở lại làm người lương thiện nhưng bị từ chối chũng là một phần do tội ác của Chí đã gây ra cho dân làng. Nhưng thủ phạm chính của sự lưu manh hóa Chí Phèo là Bá Kiến.

– Cuộc gặp gỡ với Thị Nở, sự chăm sóc và bát cháo hành của Thị Nở tưởng như đã chấm dứt quãng đời tha hóa của Chí Phèo: “ Trời  ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn” -> Chí Phèo khao khát một cuộc sống lương tiện.

– Nhưng những tập tục cổ hủ của xã hội thực dân nửa phong kiến đã ngăn  cản không cho Chí pHèo trở lại cuộc sống lương thiện. Bà cô Thị Nở đã nói lên điều đó: “ Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà mày lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ” -> ước muốn hoàn lương của Chí bế tắc, không lối thoát.

– Trong phần cuối của tác phẩm, ý thức làm người lương thiện, cố gắng  thoát khỏi cuộc sống tha hóa không thanh, Chí Phèo là một bản cáo trạnh lên án gay gắt  chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Chích cái chế độ tàn bạo, dã man này đã đẩy người nông dân vào con đường lưu manh hóa, đã không cho  phép họ trở lại làm người lương thiện.

-> Tóm lại: Hình tượng Chí Phèo tiêu bểu cho một hiện tượng có tính quy luật của xã hội nông thôn ViệtNam trước Cách mạng: con đường tha hóa của những cố nông.

– Trường hợp Chí Phèo không phải là một hiện tượng ri65ng lẽ. Trong Truyện còn có những nha6nva65t khác cũng bị tha hóa như Chí Phèo là Năm Thọ, Binh Chức.

-Hình ảnh cái lò gạch cũ bỏ không ở cuối truyện là một chi tiết có ý nghĩa báo hiệu hiện tượng Chí Phèo vẫn tiếp tục. Ở đâu có sự thống trị, bóc lột áp bức nông dân thì ở đó có hiện tượng lưu manh hóa.

KB:

– So với những tác phẩm cùng thời viết về người nông dân thì “Chí Phèo” của Nam Cao nổi bật lên ở chỗ đặt ra vấn đề nhân phẩm và quá trình tha hóa của người nông dân.

 

Đề 4.Phân tích Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo ( Nam Cao)

 

Trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Chí Phèo có lẽ là tác phẩm thành công hơn cả trong việc đem lại cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ, không thể quên về bức tranh đen tối ngột ngạt, bế tắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời thức tỉnh cái phần lương tri tốt đẹp nhất của con người, khơi dậy lòng căm ghét cái xã hội vạn ác đã chà đạp lên nhân phẩm con người, thương xót, cảm thông với những thân phận cùng đinh bị giày vò, tha hóa trong chế độ cũ.

Căm ghét xã hội thực dân phong kiến thối nát, phê phán mãnh liệt các thế lực thống trị xã hội, trên cơ sở cảm thông, yêu thương trân trọng con người, nhất là những con người bị vùi dập, chà đạp, đó là cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 30-45. Tuy nhiên, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã khám phá hiện thực ấy bằng một cái nhìn riêng biệt. Nam Cao không trực tiếp miêu tả quá trình bần cùng, đói cơm, rách áo dù đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nhà văn trăn trở, suy ngẫm nhiều hơn đến một hiện thực con người: con người không được là chính mình, thậm chí, không còn được là con người mà trở thành một con “quỉ dữ”, bởi âm mưu thâm độc và sự chà đạp của một guồng máy thống trị tàn bạo. Với một cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn, bằng khả năng phân tích lý giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và trái tim nhân ái, nhà văn đã xây dựng nên một tác phẩm với những giá trị hiện thực và nhân đạo đặc sắc không thể tìm thấy ở các nhà văn đương thời.

Thật ra trong bất cứ tác phẩm nghệ thuật chân chính nào, giá trị hiện thực bao giờ cũng đi liền với giá trị nhân đạo. Tác phẩm càng xuất sắc, những giá trị ấy càng thẩm thấu, thống nhất với nhau, khó tách rời. Chí Phèo của Nam Cao cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Bởi vì nội dung phản ánh (và tiếp nhận) – yêu thương, trân trọng hay căm ghét, khinh bỉ? Tách riêng ra hai giá trị là làm phá vỡ sự gắn liền hữu cơ của một chỉnh thể nghệ thuật vốn dĩ thống nhất.

Đọc xong tác phẩm Chí Phèo ta thấy gì? Mở đầu tác phẩm là cảnh Chí Phèo ngật ngưởng trên đường đi vừa chửi, từ trời đến người, tiếng chửi hằn học, cay độc và chua xót. Kết thúc là cảnh Chí Phèo giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi. Bao trùm lên tất cả, tác phẩm ám ảnh ta một không khí ngột ngạt, bế tắc đến khủng khiếp, đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa của một làng quê Việt Nam trước Cách mạng, với bao cảnh cướp bóc, dọa nạt, giết chóc, ăn vạ, gây gổ… trong đó Chí Phèo hiện lên như một biếm họa tiêu biểu. Hãy nghe nhà văn miêu tả: “Bây giờ thì hắn trở thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn mươi. Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn phải là mặt người: nó là mặt một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?. Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành một con quỉ dữ của làng Vũ Đại mà không tự biết. Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên. Hắn ăn trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ hắn có ở đời. Có lẽ hắn cũng biết rằng hắn là quỉ dữ của làng Vũ Đại để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đập đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu nước mắt của bao nhiêu người lương thiện… Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua…”

Đoạn văn chất chứa bao nhiêu nỗi thống khổ của một thân phận đã không còn được cuộc sống của một con người. Những năng lực vốn có của một con người – năng lực cảm xúc, nhận thức – hầu như bị phá hủy, chỉ còn lại năng lực đâm chém, phá phách. Chí Phèo bị phá hủy nhân tính lẫn nhân hình như thế bởi đâu? Nhà văn không tập trung miêu tả dông dài quá trình tha hóa ấy. Ông thiên về lí giải phân tích cái cội nguồn sâu xa dẫn đến kết cục bi thảm của nó, chỉ bằng một số phác thảo đơn sơ về Bá Kiến, về nhà tù, về bà cô Thị Nở, về dư luận xã hội nói chung… Trong hàng loạt mối liên kết ấy, người đọc dễ dàng nhận ra: sở dĩ Chí Phèo (và không chỉ Chí Phèo mà cả những Năm Thọ, những Binh Chức – cả một tầng lớp được nhà văn cá thể hóa qua nhân vật Chí Phèo) từ một thanh niên lành như cục đất hoá thành con quỉ dữ là bởi vì Chí, ngay từ thuở lọt lòng đã thiếu hẳn tình ấp ủ yêu thương, và đặc biệt khi lớn lên, chỉ được đối xử bằng rẻ khinh, thô bạo và tàn nhẫn. Thủ phạm trực tiếp là Bá Kiến được nhà văn miêu tả là một con cáo già “khôn róc đời”, “ném đá giấu tay”, “già đời trong nghề đục khoét”, biết thế nào là “mềm nắn rắn buông”, “Hay ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hay đập bàn đập ghế đòi cho được 5 đồng, nhưng được rồi lại vứt trả lại 5 hào vì thương anh túng quá!”. Chính hắn đã lập mưu đẩy Chí Phèo vào chỗ tù tội oan uổng và sau đó sử dụng Chí Phèo như một tay sai đắc lực phục vụ cho lợi ích và mưu đồ đen tối của mình. Không có Bá Kiến thì không có Chí Phèo, nhưng Chí Phèo không chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà thậm chí là phương tiện tối ưu để thống trị: “không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị mấy thằng đầu bò”. Chính Bá Kiến đã rút ra cái kết luận mà theo hắn rất chí lí ấy. Là một tội nhân, nham hiểm, nhẫn tâm, nhưng Bá Kiến lại hiện ra bề ngoài như một kẻ ôn hòa, xởi lởi, biết điều, khiến người đời phải nhìn bằng cặp mắt “kính cẩn”… Vì thế mà hắn đã lường gạt được bao nhiêu dân chất phác lương thiện. Chí Phèo trở thành tay chân đắc lực của hắn; thật sự biến thành công cụ, phương tiện thống trị cho kẻ thù của mình mà không tự biết. Bá Kiến hiện ra trong tác phẩm Chí Phèo như một nhân vật điển hình, sống động và cá biệt, tiêu biểu cho một bộ phận của giai cấp thống trị, được miêu tả, khám phá dưới một ngòi bút bậc thầy. Cùng với hắn là Lý Cường, là chánh Tổng, là đội Tảo… Chính bọn chúng đem lại không khí ngột ngạt khó thở cho nông thôn Việt Nam thành cái thế “Quần ngư tranh thực” (bọn đàn anh chỉ là một đàn cá tranh mồi, chỉ trực rình rập tiêu diệt nhau). Chính chúng là thủ phạm gây ra bi kịch của những Chí Phèo… Số phận của Năm Thọ, Binh Chức, tuy chỉ được nhắc qua tác phẩm, nhưng cũng góp phần chỉ ra tính hệ thống và phổ biến của phương cách tha hóa người dân trong sự thống trị của chúng. Đằng sau những Bá Kiến, Lý Cường, Chánh Tổng… như một sự hỗ trợ gián tiếp nhưng tích cực là hệ thống nhà tù dã man, bẩn thỉu – cả một điều kiện môi trường bất hảo. Quá trình Chí Phèo ở tù không được miêu tả trực tiếp, chỉ biết rằng khi vào tù Chí Phèo là người hiền lành lương thiện. Ra khỏi tù, hắn trở về với cái vẻ hung đồ, cái thói du côn ương ngạnh học được từ đấy. Nhà văn chỉ nói có thế. Nhưng như thế với bạn đọc thông minh cũng đã quá đủ! Bằng bút pháp độc đáo, tài hoa linh hoạt, giàu biến hóa, Nam Cao khi tả, khi kể theo một kết cấu tâm lý và mạch dẫn dắt của câu chuyện với một cách thức bề ngoài tưởng chừng như khách quan, lạnh lùng và tàn nhẫn, nhưng chất chứa bên trong biết bao nỗi niềm quằn quại, đau đớn trước thân phận đau đớn của kiếp người. +++g vào bức tranh hiện thực trên kia là thái độ yêu ghét, là cách phân tích và đánh giá những vấn đề về hiện thực mà nhà văn đặt ra. Ngay việc lựa chọn một nhân vật cùng đinh thống khổ nhất của xã hội làm đối tượng miêu tả và gởi gắm biết bao thông cảm, suy tư thương xót… tự nó đã mang nội dung nhân đạo. Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn nhận của nhà văn đối với nhân vật bị tha hóa đến tận cùng. Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn dĩ, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỉ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hất hủi. Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy bao giờ chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn, trong cái phút tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau. Cũng may Thị Nở mang bát cháo hành tới. Nếu không, hắn đến khóc được mất trong tâm trạng như thế… Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng: Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền! “Hắn thèm lương thiện – Hắn khát khao làm hòa với mọi người”… Từ một con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Bằng chi tiết này, Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ – Nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ những giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi của Chí Phèo… Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả của bao nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn vạ… đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Và, như Đỗ Kim Hồi nói, “một khi người được nếm trải chút ít hương vị làm người thì cái xúc cảm người sẽ không thể mất… Đấy là mối bi thảm tột cùng mà cách giải quyết chỉ có thể là cái chết”. (Tạp chí Văn học số 3-1990)

Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người! Đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại

 

Đề 4. Phân tích nhân vật Chí Phèo

 

Là một nhà văn luôn băn khoăn trăn trở về cách sống và cách viết, Nam Cao đã từng tuyên ngôn “Sống đã rồi hãy viết”.Một nhà văn muốn viết được nhân đạo trước hết phải sống cho nhân đạo bởi cuộc đời quyết định đến văn chương.Nam Cao luôn nhìn đời bằng đôi mắt của tình thương , đôi mắt của lòng nhân ái. Với cách nhìn đời này, Nam Cao bắt đầu cầm bút sáng tác.Trước Cách Mạng, Nam Cao viết về hai đề tài, đè tài người nông dân và đề tài người trí thức tiểu tư sản. Ở đề tài nông dân hay nhất, tiêu biểu nhất phải kể đến sáng tác đầu tay của Nam Cao, tác phẩm Chí Phèo.Linh hồn của câu chuyện là nhân vật cùng tên được nhà văn miêu tả với một tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người:Sinh ra là người nhung không được làm người, cả đời khao khát lương thiện ,cuối cùng trỏ thành kẻ bất lương.Thông qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của hắn nông dân Chí, ngòi bút Nam Cao bộc lộ là một ngòi bút nhân đạo, nhân văn, sâu sắc và cao cả.
com

Người ta thường nói bi kịch là một hoàn cảnh bi thảm, bi thương,bi đát nào đó, điều này không chính xác.Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính, cháy bỏng, mãnh liệt của một con người nhung không có điều kiện thực hiên trên thực tế, cuối cùng người mang khát vọng bị rơi vào kết cuc của một thảm kịch. Bi kịch là cuộc đáu trhắn dai dẳng, không khoan nhượng giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cao thượng và thấp hèn, giữa chính nghĩa và phi nghĩa.Trong cuộc sống thường ngày, thương nhật, bi kịch không diễn ra giữa các lực lượng xã hội đấu trhắn với nhau, trái lai nó là lực lưọng tinh thần trong đời sống tâm hồn của một con người , ví như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, cả đời hắn khao khát lương thiện, cuối cùng trở thành kẻ bất lương , sinh ra là người nhưng không dược làm người, để rồi hắn chết trên con đường trở về lương thiện.
Cuộc đời con người là một chuỗi vân đọng liên hoàn mà chúng ta không thể phân tách hay chia cắt được.Tuy nhiên cuộc đời mỗi con người được hình thành bởi những điều kiện, hoàn cảnh . Ở những điều kiện lớn, hoàn cảnh lớn,bản chất con người mới được bộc lộ bởi nói như H.Balzac: “Bản chất của con người thường bị bánh xe của số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ.” Cuộc đời Chí Phèo tù lúc sinh ra đến lúc chết đi đươc chia làm hai chặng đường: chặng đường đầu tiên từ lúc Chí sinh ra đến năm hai mươi tuổi và sau khi ra tù.

Lai lịch Chí Phèo đươc mỏ ra trong câu chuyện là một đứa trẻ xám ngắt, đượcbọc trong một tấm váy đụp bên cạnh lò gạch bỏ hoang, được người thả ống lươn đem về trong một buổi sớm tinh sương.Lớn lên, Chí Phèo được cưu mang bởi những con người nghèo khổ,Chí Phèo đi ở hết nhà này cho đến nhà khác, từ bà goá mù cho đến ông Phó Cối.Quá khứ ấy không khiến Chí Phèo trở thành một đứa trẻ hư hỏng, trái lại, đến năm hai mươi tuổi, khi đi làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, Chí Phèo vẫn giữ nguyên bản tính của một người nông dân thuần hậu.Cũng như biết bao người nông dân làng Vũ Đại, Chí Phèo ước mơ có được một cuộc sống bình dị bởi mơ ước của một con người phần nào bộc lộ bản tính của người ấy. Ở đây,Chí Phèo ước mơ có một cuộc sống nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ con lợn để nuôi, khá giả mua năm ba sào ruộng cấy.Mơ ước ấy chứng tỏ rằng hắn là một người nông dân thuần hậu, thậm chí làng Vũ Đại còn gọi hắn là người “lành như cục đất”.Ta còn thấy Chí phèo là một người trong sáng và trọng dhắn dự.Làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, rồi một lần bị bà Ba Kiến gọi lên bóp chân,Chí Phèo chỉ thấy nhục, thấy sợ .Trái tim của Chí Phèo hai mươi tuổi đau còn là gỗ đá, Chí Phèo đã nhận thức đượcđâu là tình yêu chân chính, đâu là thói dâm ô. Bị gọi “đấm bóp cho bà 3 quỷ quái hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Như vậy, rõ ràng, đến đây ta có thẻ khẳng định hắn là một người nông dân thuần hậu, là người trong sáng và trọng dhắn dự nhưng xã hội ấy không cho Chí Phèo sống yên ổn với bản tính nông dân thuần hậu của hắn.Chí Phèo đang sống trong cái xã hội mà “Kiếp người cơm vãi cơm rơi- Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi.”, trong cái xã hội mà cạm bẫy người giăng giăng như mắc cửi thì những ngời hiền lành như Chí Phèo bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi.Vì một cơn ghen bóng gió,Chí Phèo đã bị Bá Kiến tống vào ngục tù, con người xảo quyệt này sẵn sàng chà đạp lên cuộc đời người khác không thương tiếc, không ghê tay.Bắt đầu từ đây, Chí Phèo chuyển sang một trạng thái khác, một cuộc sống khác.Nhân đây cũng phải nói qua cái nhà tù, đây là nhà tù thực dân, đồng loã với lão Bá tha hoá Chí Phèo.Nhà tù này có bản chất xã hội trái hoàn toàn với bản chất xã hội của một nhà tù mà loài người đang mong đợi.Nhà tù này chỉ thu nạp tù nhân khi hắn ta còn lành như cục đát, vào nhào năn, đào tạo đến khi thánh con quỉ dữ thì thả họ ra.Nhà tù này tiếp tay cho lão Bá tha hoá Chí Phèo, nhà tù này đã biến hắn Chí “lành như cục đất” giờ đây ra tù…hãy nghe Nam Cao mô tả diện mạo của Chí Phèo lúc ra tù:”Caí đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm, ngực và tay chạm trổ đầy những hình rồng phượng, có cả một ông tướng cầm chuỳ.Trông Chí Phèo đặc như một tên săng đá”.Hình ảnh này đã làm tái hiện một Chí Phèo khác hoàn toàn, thay thế hắn nông dân thuần hậu ngày xưa giờ đây là một Chí Phèo sinh ra làm người nhưng không được làm người, hiền lành chân chất là thế giờ dây trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Đây là bi kịch đầu tiên của Chí Phèo bởi bi kịch là khát vọng chân chính, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện thục hiện trên thực tế , Chí Phèo cả đời khao khát lương thiện nhưng giờ đay thành kẻ bất lương mất rồi, thành con quỷ dũ mất rồi. Hình ảnh của Chí say rượu vừa đi vừa chửi hết sức buồn cười, phải chăng đằng sau sự lãm nhãm của hắn là tiếng kêu gào tuyệt vọng của sự thèm khát được giao tiếp với đồng loại. Trong cơn say hắn nhận ra được sự cô đơn khủng khiếp của 1 con người bị xh ruồng bỏ. “Hắn thèm được người ta chửi, chửi hắn có nghĩa là còn công nhận hắn là người”. Thế nhưng hắn cứ chửi, xung quhắn hắn là sự im lặng đáng sợ, hắn chửi rồi lại nghe: “ chỉ có 3 con chó dữ với 1 thằng say rượu”. Hắn đã bị từ chối quyền làm người tuyệt đối. Bản chất của hắn đâu phải là kẻ l/mhắn, nát rượu. Khi còn trẻ hắn đã “ao ước có 1 mái gđ nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn vợ dệt vải nuôi heo”. Mơ ước của hắn thật bình dị bằng sức lao động chân chính, cái hạnh phúc đơn sơ nhưng ấm cúng tình người tưởng chừng ai cũng có được nhưng với Chí lại quá xa vời. Giờ đây, hắn muốn sống trong cái Làng Vũ Đại “đầy bọn ăn thịt người không thắn” thì hắn phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ, muốn thế hắn phải có gan, phải mạnh, thế là hắn mượn rượu để say như hủ chìm, như thế hắn sẽ làm “bất cứ điều gì người ta muốn hắn làm”, xh đã vằm nát bộ mặt người của hắn để hắn không còn được coi là c/người nữa “ai cũng tránh mỗi lần hắn đi qua”.
Trong cơn say rượu, Chí đã gặp TNở và họ đã ăn năm với nhau …. Sau khi tỉnh cơn say, hắn nhận được sự t/yêu c/sóc của TNở làm cho trong sâu xa t/hồn hắn lay động 1 tia chớp lóe sáng trong c/đ t/tăm dài dằn dặt của hắn và hắn nhận ra được tình trạng bi thương của số phận mình. “Hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có 1 lúc mà người ta k/thể liều lỉnh được nữa, bấy giờ mới nguy”, hắn tủi thân vì hắn nhận ra sự trơ trọi của chính mình. Đó những ân hận khi CP hiểu ra hắn đã làm quá nhiều điều tội lỗi, khốn nổi khi gây ra những điều này Chí triền miên trong những cơn say nên nào biết gì! TY của TNở làm cho hắn “bổng thèm lương thiện”, b/cháo hành đã đưa Chí rẽ vào bước ngoặc mới, b/cháo hành là biểu tượng của sự cảm thông y/t giữa những c/người cùng cảnh ngộ, nó mãi mãi đi vào c/s văn chương với tư cách là biểu tượng của CN nhân đạo. Hắn cảm động quá! cảm động vì lần đầu tiên hắn được ăn 1 thứ ngon như thế. Hơn nữa muốn có cơm ăn, rượu uống chí phải dọa, cướp giật. lần đầu tiên có người tự nguyện cho hắn ăn, đặc biệt hơn đó lại là đ/bà nên con quỹ dữ đã mềm ra thành từng giọt nước mắt. Cùng với những giọt nước mắt là Chí nghe được tiếng chim hót b/sáng, tiếng gõ mái chèo của người thuyền chày đuổi cá trên sông, tiếng trò chuyện của những người đi chợ sớm. Cái đẹp của tự nhiên, c/đẹp của l/đ chứa chan tình người, tất cả thật đ/sơ nhưng cũng thật gần gủi thân thiết, những âm thhắn này ngày nào cũng có nhưng đây là l/đầu tiên chí cảm nhận được. Giọt nước mắt của chí cùng những âm thhắn b/sáng đã làm nên 1 CP khác hẳn, có nghĩa là hắn chắn điền l/thiện năm nào đã sống lại. Đây là lần đ/tiên Chí tỉnh và lần đ/tiên nhận thức được t/lỗi, sự ân hận muộn màng nhưng dù sao cũng đáng ghi nhận. Đó là biểu hiện của sự làm lành “hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao” Chí m/muốn được mọi người bỏ qua cho tất cả. Thị Nở sẽ giúp hắn làm loại từ đầu, niềm khát khao mới người làm sao!.
TY của TNở làm cho hắn thức tỉnh và mở đường cho hắn trở lại làm người, nhưng thật trớ trêu, bà cô TNở đã đóng sầm cánh cửa lại, bà không cho cháu bà “đi lấy 1 thằng ăn vạ”. Cách nhìn của bà cũng chính là cách nhìn của Làng VĐ, linh hồn của Chí vừa trở về thì bị cự tuyệt, không ai nhận ra. K/vọng của Chí đã bị đã bị xh từ chối, điều này cũng dễ hiểu vì xh quen nhìn Chí trong bộ dạng quỹ dữ, k/thể chấp nhận một CP hiện lên với tư thế con người.
Sự từ chối của xh đầy định kiến, xh không độ lượng bao dung đón đứa con lạc loài trở về v/tay cộng đồng, hoàn cảnh đặt Chí trước 2 con đường để l/chọn: “hoặc sống làm q/dữ hoặc chết để k/định g/trị làm người”. Thực chất Chí chỉ có 1 con đường để đi, khi g/trị làm người thức tỉnh thì chí không thể làm quỹ dữ, đó chính là bi kịch thân phận con người không được quyền làm người.
Sự từ chối của TNở đã đóng sập cánh cửa hoàn lương của Chí. Lúc này hắn đã uống rất nhiều rượu “càng uống càng tỉnh ra” để thấm thía thân phận mình “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Trong cơn say Hắn xách dao ra đi, hắn lãm nhãm đến nhà Tnở để đâm chém nhưng bước chân lại tìm đi tìm “kẻ gây ra tình trạng tuyệt vọng cho đời mình”. Thực trạng này đòi hỏi chúng ta phải x/đ Chí say hay tỉnh? Nếu bảo hắn tỉnh thì k/thuyết phục vì ý thức của hắn không còn k/năng điều khiển hành vi, bảo hắn say cũng không thỏa đáng vì người say không thể biết đòi l/thiện “tao muốn làm người l/thiện” và biết rất rõ không ai cho hắn l/thiện, nghịch lý này là rượu đã làm cho thế giới t/thần hắn mụ mị đi, nhưng 1 bộ phận mà rượu k/thể làm tê liệt được là ý thức làm người, cho nên hđ đòi l/thiện là vô cùng tỉnh táo vì vậy Chí đã giết BK và tự hủy diệt mình.
Cái kết thúc thật rùng rợn vì máu chảy nhưng cũng thật nhân bản vì tội ác đã được trừng trị và g/trị làm người được khẳng định. Một CP tỉnh đã giết chết 1 CP say . CP bằng xương , bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là CP đòi quyền sống , đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về , CP không bằng lòng sống như trước nữa . Và CP chết trong bi kịck đau đớn , chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống . Đây khong thể là hành động lưu mhắn mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống.
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Ở cuối tác phẩm, “đột nhiên thị thoáng thấy hiện ra một cái lò gạc cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người qua lại…”, chi tiết ấy muốn nói với chúng ta rằng, một ngày gần đây thôi,Thị Nở lại bụng mang dạ chửa vượt cạn giữa đồng không mông quạnh,giữa con mắt thờ ơ của người dân làng Vũ Đại,lai một Chí Phèo con xuất hiện. Điều này chứng tỏ rằng “Chí Phèo” không phải là bi kịch của một con người mà là bi kịch của người nông dân tồn tai trong lòng nông thôn trước Cách mạng tháng Tám. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp pk thống trị tha hoá, những bị kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn

 

 

Cuộc gặp gỡ của Thị Nở và Chí Phèo

 

Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc.

Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sang tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.

Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nôn dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong caí xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản khánh vô cùng mạnh mẻ.

Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buối sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.

Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.
– Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.
+ Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.

Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngân ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu. CP ngạc nhiên ,xúc động khi TN bê bát cháo hành sang cho CP.Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, CP đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hổi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỹ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiên, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của CP.
Một CP tỉnh đã giết chết 1 CP say . CP bằng xương , bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là CP đòi quyền sống , đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về , CP không bằng lòng sống như trước nữa . Và CP chết trong bi kịck đau đớn , chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống . Đây khong thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp pk thống trị tha hoá, những bị kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn…

Hình ảnh bát cháo hành ( Chí Phèo )

 

Chí Phèo ngạc nhiên ,xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí Phèo. Hương vị cháo hạng là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn, có thật lần đầu tiên dành cho hắn. Chí Phèo lại biết khóc, biết cười như một con người. Chí Phèo rưng rưng. Nếu không còn khả năng khóc, Chí Phèo không còn khả năng lương thiện, nghĩa là lương tri đã chết hẳn trong Chí. Sống trong làng Vũ Đại khô héo tình người , giọt nước mắt trong Chí tưởng đã khô cạn. Hoá ra nó chỉ bị vùi lấp. Trong sâu thẳm lòng Chí, nó vẫn còn cháy len lỏi, âm thầm. Chính vì vậy, Chí Phèo hồi hộp được nhận trở lại cái hạnh phúc bằng phẳng của con người lương thiện. Chí Phèo tin Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Nhưng khi Thị Nở đột ngột ” trở mặt”, Chí Phèo ban đầu chưa hiểu vì Chí đang say với nguyện ước làm người. Khi chợt nhận ra, Chí Phèo vơ rượu uống nhưng càng uống càng tỉnh và hắn càng thấm thía nỗi đau thân phận con người, càng thấm thía tội ác đã cướp đi quyền làm người của mình, cướp đi cả bộ mặt lẫn tâm hồn người nên thay vì đến nhà Thị Nở, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến vì lòng căm thù bấy lâu nay cháy bùng lên làm cho Chí vô cùng tỉnh táo . Hành động này quá bất ngờ với Bá Kiến, với cả làng Vũ Đại. Ai cũng coi đây là vụ giết người dữ dội của con quỷ dữ Chí Phèo. Trước đây để tồn tại, Chí đã bán linh hồn đi cho quỷ dữ nên mọi người đã quen coi Chí là quỷ dữ , nhưng hôm nay tâm hồn người đã trở về, mọi người cũng không nhận ra.
Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống.

 

1. Sự xuất hiện của Chí Phèo :

Chí Phèo say rượu , vừa đi vừa chửi : chửi trời → chửi đời → chửi cả làng Vũ Đại → chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn → chửi đứa nào đã để ra cái thân hắn.

Điều lạ lùng là ở chỗ : không có người nghe hắn chửi, không ai chửi lại.

=> Nam Cao đã tạo được ấn tượng đặc biệt về nhân vật của mình – một kẻ say rượu vừa quen vừa lạ (say như bao thằng say khác và lạ ở chỗ sự chửi lạ lùng) => Băn khoăn , thắc mắc .

* Câu hỏi : Bình luận lời chửi của Chí Phèo có ý kiến sau :
– ” Đó là tiếng chửi vu vơ , vô thức của những thằng say”
– ” Là tiếng lòng của một con người đang đau đớn , bất mãn”
– ” Cả 2 ý trên đều không đúng”
– Quan niệm của anh (chị)

Trả lời : Là phản ứng của một con người đang đau đớn , bất mãn với cuộc đời

→ Chí Phèo đang cô độc , không một ai ở làng Vũ Đại giao tiếp với hắn ngay cả khi hắn chửi , như vậy đối với Chí Phèo thì chửi bới la con đương duy nhất để hắn giao tiếp với công đồng , để hắn được đối thoại với mọi người , ít nhiều ý thức được bi kịch của mình : ” Sống giữa cuộc đời mà bị tước cái quyền làm người”.

2. Quá trình tha hóa của Chí Phèo :

a) Người nông dân hiền lành, lương thiện :

Đứa trẻ mồ côi → canh điền khỏe mạnh

Có lòng tự trọng : ” Hai mươi tuổi tuy là đá nhưng cũng không phải là sắt” , khi bị bà Ba sai bóp chân → thấy nhục hơn là thấy thích.

Ước mơ : có một gia đình nho nhỏ , chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.

b) Con quỷ dữ của làng Vũ Đại :

Cái đầu thì trọc lốc , cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết.

Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng .Cái ngực phanh , đầy những nét chạm thổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế.

Nhân tính : vừa lặn lội dưới đất, vừa lấy cỏ chai cào vào mặt .Trở thành tay sai cho Bá Kiến → triền miên những cơn say , làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm.

=> Từ một người nông dân hiền lành, lương thiện , Chí Phèo đã bị chà đạp về tinh thần lẫn thể xác , bị xã hội cướp đi cả hình hài lẫn tính người.

3. Quá trình hồi sinh của Chí Phèo:

+ Tỉnh rượu : lắng nghe những âm thanh của cuộc sống → bâng khuâng, lòng mơ hồ buồn.

+ Tỉnh ngộ : nhận thức , nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại lẫn tương lai. Trước hết , hắn nao nao buồn , nhớ về những ngày rất xa xôi.

→ Thấy hiện tại của mình thật đáng buôn bởi hắn thấy hắn già mà vẫn cô độc
→ Tương lai đối với hắn càng đáng buồn hơn, không chỉ buồn mà còn lo sợ tuổi già, đói rát và ốm đau , nhất là khi hắn phải cô đơn.

=> Tỉnh táo , suy nghĩ về cuộc đời mình => Bắt đầu hồi sinh.

+ Ngạc nhiên : Khi thấy Thị Nở mang cháo hành vào : thấy mắt hình như ươm ướt → xúc động →Thị Nở giục hắn ăn cho nóng → ăn năn , thấy lòng thành trẻ con, muốn làm nũng với Thị như mẹ → hiền lành → dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu ,rạch mặt và đâm chém người.

+ Mong muốn : trở lại làm người lương thiện : “Hắn thèm lương thiện , hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao”.

+ Khao khát một mái ấm gia đình và hạnh phúc :
– ” Giá mà cứ thế này mãi thì thích nhỉ ? ”
→ Là được ăn cháo hành, được sống bên cạnh Thị , được quan tâm, chăm sóc, yêu thương.
– ” Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui ”
→ Một mái ấm gia đình vui vẻ , hạnh phúc như là ước mơ của Chí Phèo từng có
→ Lời cầu hôn giản dị nhưng chất phác của Chí Phèo.

* Giá trị nhân đạo : Nam Cao khẳng định sức sống bất diệt của thiên lương , lương thiện, khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên , tốt đẹp và mạnh mẽ của con người mà không có thế lực tàn bạo nào có thể hủy diệt được.

=> Bài học : Sống trên đời cần có sự quan tâm , chia sẻ.


Có một phản hồi »

  1. tam dc nhug khog xoay quanh van de !!! k phan tích kỹ bat chao hanh !!! cu lap laj hoan canh

Bình luận về bài viết này